Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Bốn - Thiên Sáu Sứ - Chương Tám - Tương ưng Thôn Trưởng - Phần Bảy - thuyết Pháp
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP BỐN
THIÊN SÁU SỨ
CHƯƠNG TÁM
TƯƠNG ƯNG THÔN TRƯỞNG
PHẦN BẢY
THUYẾT PHÁP
Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.
Rồi Thôn Trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Thôn Trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn sống vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh và loài hữu tình?
Ðúng vậy, này Thôn Trưởng, Như Lai sống vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Nhưng vì sao, bạch Thế Tôn, đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp một cách hoàn toàn trọn vẹn.
Đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp không hoàn toàn trọn vẹn như vậy?
Vậy, này Thôn Trưởng, ở đây, ta sẽ hỏi ông, ông kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào, này Thôn Trưởng, ở đây, một người cày ruộng có ba thửa ruộng, một loại tốt, một loại bậc trung, một loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc.
Ông nghĩ thế nào, này Thôn Trưởng?
Người cày ruộng ấy muốn gieo hột giống, thời gieo ở thuở ruộng nào trước, ruộng tốt, hay ruộng bậc trung, hay ruộng loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc?
Bạch Thế Tôn, người gia chủ cày ruộng muốn gieo hột giống, gieo vào thửa ruộng tốt.
Sau khi gieo ở đấy xong, lại gieo vào thửa ruộng loại trung. Sau khi gieo ở đấy xong, vị ấy có thể gieo hay không gieo hạt giống vào thửa ruộng loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc.
Vì sao?
Tối thiểu cũng có thể làm món ăn cho các trâu bò. Ví như thửa ruộng tốt, này Thôn Trưởng, là các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni của ta.
Ðối với họ, ta thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta nói lên cho họ biết đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Này Thôn Trưởng, vì họ sống lấy ta làm ngọn đèn, lấy ta làm hang ẩn, lấy ta làm chỗ che chở, lấy ta làm chỗ nương tựa.
Ví như thửa ruộng loại trung, này Thôn Trưởng, là các vị nam Cư Sĩ, nữ Cư Sĩ của ta.
Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn.
Ta nói lên cho họ biết đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Này Thôn Trưởng, vì họ sống lấy ta làm ngọn đèn, lấy ta làm hang ẩn, lấy ta làm chỗ che chở, lấy ta làm chỗ nương tựa.
Ví như thửa ruộng xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc, này Thôn Trưởng, là các ngoại đạo Sa Môn, Bà La Môn, du sĩ.
Ta thuyết pháp cho họ sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày cho họ biết đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Vì rằng, nếu họ hiểu được chỉ một câu, như vậy là họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Ví như, này Thôn Trưởng, một người có ba bình nước, một bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước.
Một bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước.
Một bình nước nứt rạn, chảy nước, thấm nước.
Ông nghĩ thế nào, này Thôn Trưởng?
Nếu có người muốn chứa nước, người ấy sẽ chứa nước ở đâu trước, người ấy chứa bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước, hay bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước, hay bình nước nứt rạn, chảy nước và thấm nước?
Bạch Thế Tôn, người ấy muốn chứa nước, người ấy sẽ chứa vào bình nước không có nứt rạn, không có chảy nước, không có thấm nước.
Sau khi chứa nước vào đấy rồi, người ấy mới chứa nước vào bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước.
Sau khi chứa nước vào đấy rồi, người ấy mới chứa nước hay không chứa nước vào bình nước bị nứt rạn, bị chảy nước, bị thấm nước.
Vì sao?
Vì ít nhứt cũng có thể dùng để rửa vật dụng. Ví dụ với bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước, này Thôn Trưởng, là các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni của ta.
Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Này Thôn Trưởng, vì họ sống lấy ta làm ngọn đèn, lấy ta làm hang ẩn, lấy ta làm chỗ che chở, lấy ta làm chỗ nương tựa.
Ví dụ với cái bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước, này Thôn Trưởng, là các nam Cư Sĩ, nữ Cư Sĩ của ta.
Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Này Thôn Trưởng, vì họ lấy ta làm ngọn đèn, lấy ta làm hang ẩn, lấy ta làm chỗ che chở, lấy ta làm chỗ nương tựa.
Ví dụ với cái bình nước bị nứt rạn, bị chảy nước, bị thấm nước, này Thôn Trưởng, là các ngoại đạo Sa Môn, Bà La Môn, du sĩ.
Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày cho họ biết đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Vì sao?
Vì rằng, nếu họ chỉ hiểu được một câu, như vậy là họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Khi được nghe nói vậy, Thôn Trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn: Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ba Tướng
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Niệm Xứ - Phần Hai - Quán Thân
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bản Sinh Tâm địa Quán - Phẩm Một - Phẩm Tựa - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Mười Chín - Phẩm Cảm ứng
Phật Thuyết Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô Tướng - Phẩm Ba - Phẩm Thí Dụ
Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ - Phần Hai Mươi
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Kinh Phu Thê