Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM HAI

PHẨM DỤC  

TẬP BỐN  

Lúc bấy giờ cung Vua Đảnh Sinh Trời mưa bảy báu suốt bảy ngày đêm, Vua nhìn thấy cảnh ấy nhưng tâm không biết thỏa mãn, không biết đủ. Kẻ tham dục thì khổ nhiều, vui ít.

Lúc ấy Vua Đảnh Sinh dạo chơi trên Cõi Trời, hưởng năm thứ dục lạc Cõi Trời, dạo chơi khắp nơi, vui sướng vô cùng. Nhưng khi biết mình sắp chết, ông chịu khổ vô lượng. Người trí biết suy nghĩ nên luôn đề phòng chuyện chưa xảy ra.

Cho nên nói:

Biết rõ là người khôn.

Dù dục Cõi Trời

Vẫn bỏ không tham

Vui lìa ân ái

Chính đệ tử Phật.

Thuở ấy, Đức Phật ngự trong vườn Ni Câu Loại, nước Ma Đầu La.

Lúc ấy, có một thầy Tỳ Kheo ngồi thiền trong tịnh thất, thân thể không nhúc nhích. Lại có một con rắn độc nằm khoanh tròn dưới giường. Thầy Tỳ Kheo đang bị cơn buồn ngủ ép ngặt nên thầy gục lên gục xuống.

Con rắn độc thấy vậy nghĩ rằng: Nếu người này nhìn thấy ta sẽ sợ hãi mà giết ta. Con rắn liền cất mình lên phun nọc độc vào thầy Tỳ Kheo đang ngồi thiền. Thầy Tỳ Kheo chết, sinh lên Cõi Trời Đao Lợi. Các ngọc nữ Cõi Trời đều đến vây quanh hầu hạ.

Vị Vua Trời này bảo: Các cô chớ đến gần ta. Nếu đến gần sẽ phạm giới cấm.

Các ngọc nữ nghĩ: Tiền thân của vị Trời này có lẽ là bậc Sa Môn, được sinh lên đây để hưởng phước báo Cõi Trời.

Lúc ấy các thiên nữ, mỗi người cầm một gương soi đưa ra phía trước. Nhìn qua gương, vị Trời này thấy mình mặc áo nhà Trời, đầu đội mũ Trời.

Vị Trời tự nghĩ: Than ôi, ta đã thay đổi hình dạng.

Tại sao ta bỏ thân người mà sinh lên Cõi Trời này?

Ông buồn bã khóc lóc, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đi qua các tầng Trời, thấy những người hầu hạ theo sau, có người đẹp có người xấu. Cứ theo lối đi, ông đến khu vườn nọ, tới ngồi dưới một gốc cây. Ông ngồi ngay thẳng suy nghĩ, nhập vào chánh định. Lúc đó, từ ao nước có giống chim lạ, nhắm vào ông mà kêu tiếng buồn thảm, tiếng buồn vang xa, loại chim này có nhiều hình dáng màu sắc khác nhau. Muốn cầu thành đạo không thể được.

Bấy giờ, vị Trời này tuổi thọ đã hết, từ Cõi Trời Tam Thập Tam ông sinh trở lại Cõi Diêm Phù Lợi, đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Phật, chắp tay hướng về Phật hỏi nghĩa bằng bài kệ:

Thiên nữ đông đảo kia

Theo hầu có xấu, đẹp

Hậu viên, bị mê hoặc

Làm sao mà cứu vớt?

Bạch Ngài, cuối cùng con chưa thấy được chân đế thì đã qua đời. Tuy sinh lên Cõi Trời hưởng phước báo Cõi Trời, hết phước thì sinh vào địa ngục Thái sơn, cứ xoay vần thế ấy, không ngừng nghỉ.

Hôm nay lâm vào đường cùng, không nơi hướng về, xin nương cậy vào lòng thương xót của Đức Như Lai.

Lúc ấy Đức Thế Tôn dung bài kệ đáp:

Đạo là nhắm đường thẳng

Mới được gọi không sợ

Xe đi không trục trặc

Quán pháp mà thành tựu.

Vị Vua Trời nghe Đức Phật nói, ngay tại chỗ ngồi bao nhiêu bụi nhơ phiền não đều tan hết, chứng được mắt pháp thanh tịnh.

Ông vui mừng hớn hở không kiềm chế được, bèn đi bảy vòng quanh Phật, làm lễ rồi lui ra.

Lúc ấy Đức Thế Tôn quán sát ý nghĩa này, thấu suốt ngọn ngành, muốn thị hiện ngọn đèn sáng lớn cho chúng sinh đời sau, cũng khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian nên Đức Phật ở trước đại chúng nói bài kệ rằng:

Dù dục Cõi Trời,

Vẫn bỏ không tham.

Vui lìa ân ái,

Chính đệ tử Phật.

Bấy giờ, hội chúng nghe lời Phật dạy, vui mừng rồi lui.

Các núi đều thành vàng

Giống như núi Thiết Vi

Đó vẫn chưa thỏa mãn,

Chỉ Thánh Nhân biết rõ.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cũng nói bài kệ này cho Vua Đảnh Sinh nghe. Người chưa cắt đứt ái dục thì ý cứ muốn xây thành quách nơi này xứ nọ, xong một cái lại muốn cái thứ hai. Ý tham không biết thỏa mãn. Vua Đảnh Sinh kia do tâm tham đắm nên núi lớn nhất trong các núi không núi nào hơn núi Thiết Vi, đều hóa thành vàng đầy ngập Thế Giới đi nữa thì vẫn không thỏa mãn.

Không xét cội nguồn khổ

Ái sinh sao cắt được?

Ái dục như mũi nhọn

Tinh tấn tu học giới.

Không xét cội nguồn khổ, nghĩa là có các chúng sinh rong ruổi khắp nơi, trải bao hiểm nạn, hoặc cọp, sói, cướp, rắn độc, quỷ dữ, gai gốc, chốn rừng sâu không dấu chân người qua lại, hoặc bị đao kiếm cắt, mổ. Có người ra biển gặp vô số tai nạn, như gió bão, sóng giật, gãy cột buồm, thuyền to bị thủng. Hoặc gặp núi đen quỷ mị, trôi giạt vào cõi nước quỷ La Sát.

Vì thế cho nên nói: Không xét cội nguồn khổ.

Ái sinh sao cắt được, nghĩa là do tham dục xoay vần sinh ra nhau.

Ái dục như mũi nhọn, nghĩa là kết sử cũng gọi là mũi nhọn, thân bốn đại cũng gọi là mũi nhọn. Người ta bị hai mũi nhọn này đâm, không ra khỏi vòng sống chết, chịu các khổ não. Mũi nhọn cũng gọi là mũi nhọn ái dục, cũng gọi là mũi nhọn kiến chấp.

Tinh tấn tu học giới, nghĩa là tinh tấn là trí tuệ, giảng nói nghĩa sâu kín, bỏ sai lầm, trở về với chân chính, trí tuệ đầy đủ.

Người không tu chỉ quán

Dục nặng quán thanh tịnh

Càng tăng thêm yêu đắm

Trói buộc càng sâu chặt.

Người không tu chỉ quán: Nếu có người không khéo quán sát sự đắm nhiễm nên thân tâm họ bị trói cột, không thể mở ra được.

Đang trong hoàn cảnh ấy thì không thể suy nghĩ đến pháp lành.

Cho nên nói: Người không tu chỉ quán không thể đến với đạo.

Dục nặng quán thanh tịnh: Hoặc có chúng sinh đắm nhiễm ái dục chứ không đắm nhiễm kết sử, hoặc có người đắm nhiễm cả hai là kết sử và ái dục, hoặc có người không đắm nhiễm cả hai thứ ấy.

Tại sao chúng sinh đắm nhiễm ái dục mà không đắm nhiễm kết sử?

Ấy là vì người này, từ đầu đã quen với ái dục, về sau không còn phạm. Đó là đắm nhiễm ái dục mà không đắm nhiễm kết sử. Lại có người thường quen sống với kết sử, không xa lìa, đó gọi là quen đắm kết sử mà không đắm nhiễm ái dục.

Thế nào là vừa đắm nhiễm kết sử mà cũng vừa đắm nhiễm ái dục?

Là vì chúng sinh này vừa sống quen với ái dục và với kết sử, nên gọi là vừa sống quen với ái dục vừa quen sống với kết sử.

Thế nào là không quen sống với ái dục cũng không quen sống với kết sử?

Nghĩa là nếu có chúng sinh đã cắt đứt ái ân, không còn dính mắc phiền lụy ở đời, họ giữ không cho mình gần với phiền lụy. Lại có người từ đầu đến chân, luôn luôn dính mắc thân và mọi vật, từ bàn tay đẹp, hàm răng trắng, móng tay bóng, mái tóc mượt xanh biếc… từ đó ham thích nó, say đắm không lìa bỏ được.

Vì vậy, gốc ái dục càng tăng khiến sự trói buộc trở nên vững chắc thêm. Về bị các kết sử trói buộc, ở đây xin nói thí dụ để qua đó, người trí sẽ tự hiểu, như có người bị trói bằng hai sợi dây, một sợi bằng da, sợi kia bằng râu rồng.

Khi anh này đến bên lửa nong thì sợi dây da căng lên, còn sợi dây long tu thì giãn. Nếu anh này xuống nước thì sợi dây da giãn ra, sợi dây long tu căng ra. Người chưa cắt đứt ái dục cũng như vậy, bị trói bằng hai sợi dây.

Hai sự trói buộc đó là gì?

Đó là ái trói buộc, hai là kiến kết trói buộc. Có khi chúng sinh suy tư phép quán bất tịnh, thì dây ái giãn, dây kiến kết lại căng. Còn khi chúng sinh suy tư An ban thủ ý sổ tức quán thì kiến kết giãn, ái kiến kết lại căng.

Cho nên nói:

Trói buộc càng sâu chặt.

Nếu ai ưa chỉ quán,

Chuyên tâm quán bất tịnh,

Ái kia bị dứt trừ,

Như vậy kết sử diệt.

Nếu ai ưa chỉ quán: Nếu có người không thích nghĩ đên các điều bất thiện mà chỉ suy nghĩ các điều thiện, thường gần gũi người tu học, không rời buộc niệm. Trước hết là tu quán bất tịnh, tự nhớ lại những gì mà trước đây mình ham thích như tóc lông răng móng, từ đầu đến chân, đều là cái của ta.

Kế đó, suy nghĩ các thứ ấy đều là dơ uế, bất tịnh, cả ba mươi sáu vật trong thân đều không đáng tham đắm, phân biệt rõ ràng từng vật một, thì liền được bất tịnh quán thân, ý quán thân dừng, ý pháp trong ngoài.

Ái kia bị dứt trừ: Dùng trí tuệ trong sạch dứt bỏ hết ái nhiễm, suy nghĩ các thứ bất tịnh, liền dứt bỏ hết ái nhiễm, không còn bị nó trói buộc, dứt bỏ hẳn các kết sử, không bao giờ gần gũi nó nữa.

Cho nên nói:

Như vậy kết sử diệt.

Vì lưới ái tự che

Vì màn ái tự phủ

Mặc tình trói trong ngục

Như cá chui vào rọ

Bị già chết rình rập

Như nghé đeo vú mẹ.

Vì lưới ái tự che: Cái lưới bao trùm mắt người, làm trí tối, không sáng suốt, không thể ra khỏi luân hồi, đạt đạo vô vi. Khi bị lưới bao trùm thì không thể chuyên tâm suy nghĩ vì đã bị lưới vô minh che kín.

Vì màn ái tự phủ: Bị trói chặt trong ái, không có ngày ra. Như lửa than hừng bị vùi dưới tro, người không thấy nên dậm đạp lên, khi bị phỏng chân mới biết, người bị ái dục bao trùm cũng như vậy.

Như chiếc gươm bén để ngửa lên, người không có mắt, đưa tay chụp lấy thì bị chảy máu tay. Các loài chúng sinh cũng giống như thế. Họ bị ái kết che kín nên không còn thấy được pháp thiện, bất thiện. Từ đó, sinh khởi lo buồn khổ não, trôi lăn trong vòng sống chết, không ra khỏi năm đường.

Cho nên nói: Vì màn ái tự phủ.

Mặc tình trói trong ngục: Có các chúng sinh cứ mặc tình buông lung, sống trái chánh giáo, nên bị ái trói cột. Nếu không còn buông lung thì liền ra khỏi sự trói cột ấy.

Như cá chui vào rọ: Như người chài lưới tung lưới bắt cá, khi cá vướng vào lưới thì hết đường ra. Chúng sinh ham ái dục cũng như vậy. Họ không làm pháp lành, làm những điều ô trược, bất chính.

Khi Đức Như Lai nói pháp, giữa hội chúng cũng có những người như cá chui vào rọ, không có lúc nào ra khỏi. Các loài chúng sinh ham mê ái dục cũng như vậy. Họ bị ái kết quấn chặt, nên không thể đến được đạo Niết Bàn vô vi.

Lúc ấy, những người chài lưới nghe lời Phật nói, họ đều kinh ngạc, vì họ có cảm giác rằng Như Lai nói pháp không phải cho ai khác mà cho chính họ. Ai nấy đều ăn năn trách mình, sửa đổi cuộc sống, rèn luyện tu tập không làm ác nữa.

Cho nên nói: Như cá chui vào rọ.

Pháp mà Chư Phật thường nói là để dẫn dắt những chúng sinh có duyên, chứ không phải là nêu nghĩa suông. Cũng như thầy thuốc trước xét nguyên do căn bệnh, rồi sau mới bốc thuốc. Thầy thuốc xem bệnh nặng hay nhẹ qua hình tướng, sắc mặt, màu da rồi mới cho thuốc. Thuốc mà ông đưa không thêm, không bớt, mà là tùy theo căn bệnh.

Tại sao vậy?

Vì e không cho đúng thuốc thì bệnh không khỏi. Chư Phật, Thế Tôn nói pháp cho chúng sinh nghe cũng như vậy, các Ngài xem xét tâm ý mà mọi người hướng đến, biết họ mắc bệnh nặng hay nhẹ, rồi mới nói pháp, khiến tâm họ được mở tỏ. Các Ngài không giảm bớt, chỉ nhằm vào những điều cốt yếu mà nói, để dứt trừ tất cả kết sử. Đức Phật xem xét tâm chúng sinh, nếu cần một bài kệ thì nói một bài kệ.

Nếu họ cần năm câu thì nói năm câu. Nếu họ cần một câu, nửa câu thì nói một câu, nửa câu.

Lúc ấy Đức Phật xem xét tâm người chài lưới nên nói bài kệ đó. Đối với những người sống tự do buông lung thì Ngài nói cho họ là cái già chết đang rình rập họ, như trâu nghé cứ tìm bám vú trâu mẹ, như nghé mới được xổ lòng tâm nó không bao giờ rời mẹ.

Chúng sinh cũng như vậy, họ bị già chết đuổi theo mãi như bóng đi theo hình. Nếu chúng sinh căn tánh bén nhạy, khéo quán sát rõ ràng thì họ ngỡ sẽ thoát khỏi mọi khổ não, làm cho gốc lành them lớn mạnh. Còn những chúng sinh căn tánh chậm lụt, không biết quán xét thì không thành công điều gì.

Cho nên nói:

Bị già chết rình rập,

Như nghé đeo vú mẹ.

Người tâm ý buông lung

Giống như cây Ma Lâu

Đi khắp mọi nơi chốn

Như vượn chuyền kiếm trái.

Người tâm ý buông lung: Hàng Sát Đế Lợi, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, đồng niên, thanh niên, trung niên đến già cả, những ai chưa đạt đạo để tâm ý buông lung, làm cho gốc rễ ái dục thêm lớn, như cây Ma Lâu, khi cây này mới lớn thì nó đã bị dây leo quấn chằng chịt nên khi cao lớn thì nó bị khô chết.

Người có tâm ái dục cũng như vậy, tâm ái dục này đốt cháy hết gốc rễ chúng sinh.

Cho nên nói: Giống như cây Ma Lâu.

Đi khắp mọi nơi chốn: Trôi lăn trong năm đường ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… như bánh xe quay.

Cho nên nói: Đi khắp mọi nơi chốn.

Như vượn chuyền kiếm trái: Khỉ, vượn đi tìm hái trái cây, nó chuyền cây này qua cây khác, đi từ khu rừng này đến khu rừng nọ.

Cho nên nói:

Như vượn chuyền kiếm trái.

Từ ái dục đượm nhuần

Tư tưởng sinh lan tràn

Ái dục sâu không đáy

Già chết lại càng thêm.

Từ ái dục đượm nhuần: Dòng chảy tràn của ái dục như mạch suối phun. Các sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhớ lại vốn đã tạo ra năm thứ dục lạc vui chơi.

Cho nên nói: Từ ái dục đượm nhuần.

Thứ đượm nhuần của bơ, dầu, mỡ không gọi là đượm nhuần vì những sự đượm nước ướt ấy có thể trừ sạch bằng cách lấy tro, đất chà bỏ đi. Còn chất đượm ướt của ái dục thì chỉ có Đức Phật, Thế Tôn ra đời mới khả năng cắt đứt nó được bằng dao trí tuệ.

Cho nên nói: Từ ái dục đượm nhuần.

Tư tưởng sinh lan tràn: Sự hừng hực của lửa nóng cũng không hơn tư tưởng. Lửa gây phỏng lở có thể chữa trị, bị cháy bởi lửa tư tưởng thì không thể chữa trị được. Nếu ai giết cha mẹ, ăn trộm, dâm dật gây ra các tội lỗi thì dù Chư Phật, Thế Tôn cũng không chữa trị được.

Cho nên nói: Tư tưởng sinh lan tràn.

Già chết lại càng thêm: Đời sống có thân ắt phải lo buồn về thân. Già có bốn trăm lẻ bốn bệnh đau nhức. Chết thì có gió độc làm hại.

Cho nên nói:

Già chết lại càng thêm.

Chúng sinh quấn trong ái

Như thỏ bị mắc bẫy

Bị kết sử quấn chặt

Luôn luôn chịu khổ não.

Chúng sinh quấn trong ái: Ái dục là kẻ dẫn đường đi trước dẫn dắt chúng sinh trôi lăn trong sinh tử, không ra khỏi ba cõi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần