Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Một
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI
PHẨM DỤC
TẬP MỘT
Dục, ta biết gốc ngươi
Ý từ tư tưởng sinh
Ta không nghĩ tưởng ngươi
Thì ngươi sẽ không có.
Thuở ấy, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cùng thị giả A Nan đắp y, ôm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Khất thực xong trở ra ngoài thành thì có một phụ nữ ẵm con, mang bình đến giếng múc nước. Lúc đó, có một chàng trai trẻ, hình dáng khôi ngô, ngồi cạnh giếng khảy đàn vui chơi. Người phụ nữ bỗng khởi dục tâm, mê đắm chàng trai nọ.
Chàng trai nọ dục ý lẫy lừng, cũng say mê người nữ ấy. Trong khi tình đang dâng mê hoảng, người phụ nữ lấy dây cột cổ đứa con rồi đem treo nó dưới giếng. Sau đó nàng quay lại kéo đứa bé lên khỏi giếng thì nó đã chết.
Nàng rất đau khổ kêu Trời, nước mắt tuôn rơi và nói bài tụng:
Dục, ta biết gốc ngươi
Ý từ tư tưởng sinh
Ta không nghĩ tưởng ngươi
Thì ngươi sẽ không có.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan: Bài kệ thầy vừa nghe ấy do hằng sa Chư Phật nói. Thầy nên học thuộc, chiều nay nhóm họp đại chúng, thầy sẽ đọc bài kệ ấy trước đại chúng.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sau bữa ngọ trai, Ngài xếp ba y.
Sau khi đại chúng nhóm họp đông đủ trong giảng đường, Đức Phật đến ngồi giữa đại chúng, rồi Ngài bảo các Tỳ Kheo: Sáng nay, ta cùng A Nan vào thành khất thực, sau đó trở ra ngoài thành. Ta thấy một phụ nữ tay ẵm con, tay cầm bình ra giếng múc nước.
Cách giếng không xa có một thanh niên đang khảy đàn vui chơi. Hai người nhìn nhau, đều khởi tâm dâm dục, nhìn nhau đắm đuối, mắt không rời. Khi ấy vì mê mờ, người đàn bà nọ cột cổ đứa bé treo dưới giếng. Sau khi thỏa tình, người đàn bà vội đến kéo đứa bé lên nhưng nó đã chết.
Người đàn bà ấy buồn bã kêu khóc liền nói kệ rằng:
Dục, ta biết gốc ngươi
Ý từ tư tưởng sinh
Ta không nghĩ tưởng ngươi
Thì ngươi sẽ không có.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Lửa dâm lẫy lừng, có khả năng thiêu đốt các cội gốc lành.
Kẻ hoang dâm thì không còn biết gì đến thiện ác, cũng không phân biệt được đâu là pháp thanh bạch, không biết đâu là con đường ràng buộc và xuất ly. Hạng người này không biết xấu hổ. Họ làm cho thân tộc và phải chịu hình phạt nhục nhã.
Việc gì thiếu tính chất dâm thì không hợp ý muốn của họ. Có người vì dâm dục mà giết hại cha mẹ, anh em, chị em, khiến họ phải chịu tai ương. Có kẻ vì tội dâm dục và năm tội nghịch bị Vua chúa giết chết, phải chịu quả báo xấu ác.
Chính những người ấy mang tội nặng, họ còn làm liên lụy đến bà con họ hàng, khác gì lửa cháy đồng trống, cháy lan đến cả cây bên đường. Con người do lòng dâm dục mà trái lời Phật dạy, khinh chê giáo pháp, hủy báng Thánh Tăng, bị các Thánh Hiền quở trách. Giờ đây ta sẽ nói về cội gốc của việc phạm dâm, các thầy hãy lắng nghe.
Xưa, có một người mắc chứng gian dâm không dứt. Cha mẹ chỉ sinh được một mình anh ta. Thế rồi, một đêm vắng người, trời âm u sấm chớp, anh ta vẫn mang dao, cầm cung tên mà đi đến nhà dâm nữ nọ trong ngôi làng kia.
Biết việc này, người mẹ bèn chặn anh ta lại mà can ngăn rằng: Đêm hôm tăm tối, sấm chớp vang Trời, nếu không làm được xong việc thì người ta sẽ giết con. Kiếp trước vì ít phước nên nay mẹ chỉ có một mình con.
Nếu con có bề nào thì mẹ biết nương cậy vào ai?
Y nói với mẹ rằng: Con phải đi ngay, không thể chần chờ!
Biết ý con, người mẹ liền sụp xuống lạy con và nói: Hiện giờ trời tối lắm, con hãy nán lại, mai sẽ đi.
Y bảo mẹ rằng: Hãy mau buông ra cho tôi đi, nếu trái ý, tôi sẽ giết bà đó.
Người mẹ nói: Thà mẹ bị con giết chứ mẹ không chịu đựng nổi khi thấy con bị kẻ khác giết.
Y bảo: Bà hãy buông tôi ra để tôi đến nhà nàng. Nếu bà không nghe, tôi giết bà ngay bây giờ.
Người mẹ nói: Chết thì chết chứ mẹ nhất định không buông con ra.
Đứa con ngỗ nghịch liền rút dao đâm người mẹ chết tươi, mà y không hề lo nghĩ tới kiếp sau tai ương sẽ đổ tới rất nặng nề. Rồi y chạy ngay đến nhà cô gái nọ kêu cửa.
Cô gái liền hỏi: Anh là ai?
Rồi cô ta nói kệ rằng:
Dâm nộ, các căn suy
Do tưởng, mà sai lầm
Không nghĩ đến các việc
Bị ngu tối che đậy.
Nay anh giết cả mẹ
Nép mình như tôi tớ
Nhón chân đợi cửa ngoài
Như đầy tớ để sai.
Lúc ấy, từ xa trông thấy anh nọ, cô gái liền hỏi: Anh giết mẹ rồi phải không?
Đáp: Phải.
Cô gái nói: Sao anh lại giết mẹ?
Chàng nọ đáp: Bà ấy không chịu buông ra để tôi tới đây với cô.
Cô gái bảo: Thôi, ông không được vào nhà tôi.
Bấy giờ cô gái nói kệ rằng:
Ôi, bội ân nuôi dưỡng
Giết mẹ gây tội lỗi
Không muốn thấy mặt ông
Mau đi khỏi nhà tôi.
Cha mẹ nuôi ẵm bồng
Vì con chịu các khổ
Giết mẹ đi trên đất
Đất không rút chết ông.
Vì mình, không chút tình
Làm hại đến thân tộc.
Tôi chỉ là người dưng,
Thì được ân đức gì.
Lúc ấy chàng nọ lại bảo: Vì cô mà ta giết mẹ, gây ra tội khôn cùng. Xin hãy tha thứ, mở cửa cho ta vào nói với nàng vài lời rồi ta sẽ trở về.
Cô gái liền nói:
Hãy nghe kệ của ta.
Thà nhảy xuống hố lửa,
Gieo mình xuống vực sâu,
Để cho rắn cắn chết,
Chứ không gần kẻ ngu.
Rồi, hai người chia tay nhau. Trở về nhà, trên đường, chàng nọ bị ăn cướp giết chết. Sau khi chết, bị đọa vào ngục A Tỳ chịu tội trong vô số kiếp.
Dâm là một chứng bệnh đưa đến vô lượng tai ương. Từ ít dần chứa nhóm thành nhiều, đưa đến thiêu đốt thân, tự mình lại làm hại đến kẻ khác, không được một cuộc sống trọn lành. Như chính mình uống thuốc độc lại còn bắt kẻ khác uống.
Cho nên nói:
Không nên làm việc dâm.
Ái dục sinh lo
Ái dục sinh sợ
Nếu không ái dục
Không còn lo sợ.
Ái dục sinh lo: Như vợ bị chết, hoặc bị kẻ khác cướp đoạt, hoặc nuôi chồng bị bệnh lâu ngày, hoặc là chồng đi xa lâu ngày không về.
Cho nên nói: Ái dục sinh lo.
Ái dục sinh sợ: Vợ đẹp bị bọn người giàu có, có thế lực chiếm đoạt, hoặc vợ mắc bệnh lâu ngày mà mạng sống có thể chấm dứt bất cứ lúc nào, hay phải đi nơi khác kiếm sống.
Cho nên nói: Ái dục sinh sợ.
Nếu không ái dục: Thế nào là không có ái dục?
Đó là bậc đã chứng quả A Na Hàm, A La Hán. Riêng hai bậc này thì không còn gì để họ lo và sợ nữa.
Tại sao vậy?
Vì họ đã thoát ra khỏi mọi lo toan nên không còn sợ gì nữa. Cõi dục và sắc thì còn lo, sợ. Bậc A Na Hàm thì đã dứt hết lo sợ ở cõi dục, bậc A La Hán thì dứt hết mọi kết sử của ba cõi.
Cho nên nói:
Nếu không ái dục,
Không còn lo sợ.
Ham vui sinh lo
Ham vui sinh sợ
Không còn ham vui
Thì không lo sợ.
Ham vui sinh lo: Xướng trổi kỹ nhạc, vui chơi năm dục bị Vua ghét, đoạt lấy nhạc khí, từ đó sinh lo. Hoặc bị Vua sai đi xa, phải đến một nơi khác nên sinh tâm lo lắng, hoặc mang bệnh lâu ngày dây dưa, phải đắp mền liên miên thành mờ mắt, sợ phải chết nên sinh tâm lo sợ. Hạng người trước vì nhạc khí mà bị mất mạng.
Lại có hàng Vua chúa mất nước, mất ngôi, việc này không do mình gây ra, nhớ lại xưa kia từng vui chơi nơi sang trọng, bèn sinh sầu lo rồi mang bệnh nặng. Hoặc bị kẻ thù cũ ngày đêm rình rập để giết mình, bắt mình, nên cứ nghĩ mà lo buồn, khổ não.
Cho nên nói: Ham vui sinh lo, ham vui sinh sợ.
Thế nào là không còn ham vui?
Bậc A Na Hàm, A La Hán đã dứt bỏ năm thứ dục lạc, vui với chánh pháp.
Như lần nọ, Nan Đà bạch Phật: Không thấy Tôn Đà Lợi, trong tâm con không vui.
Đức Thế Tôn dạy Nan Đà rằng:
Không chán, có gì đủ
Không đủ, có gì vui
Không vui, có gì yêu
Không yêu, có gì vui.
Lòng người buông thả
Không biết nhàm đủ
Tâm thường lẫy lừng
Bao giờ ngừng nghỉ?
Nên giờ đây ngươi phải suy nghĩ, quán xét những ý nghĩ bất tịnh bên trong thì sẽ được giải thoát từ tâm giác ngộ ấy. Hiện giờ, ông chưa được giải thoát chính là do không biết suy xét những ý nghĩ đó. Do không chịu suy nghĩ nên dâm, nộ, si mới lẫy lừng.
Thế rồi, Nan Đà cố gắng tinh tấn, nhất tâm suy xét pháp bất tịnh dơ bẩn.
Vì sao?
Vì làm được thân người là khó, gặp được Bậc Thánh Hiền cũng khó. Các cơ quan trong thân không bị khuyết tật cũng khó. Gặp được Chư Phật ra đời cũng không được gặp, như hoa Ưu Đàm Bát phải đúng lúc mới xuất hiện.
Muốn nghe chánh pháp cũng không được nghe. Trạng thái vắng lặng vô vi thường lạc an ổn đều nhờ chánh pháp mà được đến bờ bên kia. Thế nên Nan Đà nhờ suy nghĩ chánh pháp và những ý tưởng bất tịnh một cách cẩn thận nên đạt được cảnh giới vô vi.
Cho nên nói:
Ham vui sinh lo
Ham vui sinh sợ
Không còn ham vui
Thì không lo sợ
Đức Phật lại nói bài kệ rằng:
Trái, trước ngọt sau đắng
Dâm, nộ cũng như vậy
Sau chịu báo đau khổ
Trải qua vô số kiếp.
Kẻ ngu chịu nấu, đốt
Thường sống trong lửa hừng
Bị cai ngục giam giữ
Như móc sắt khiển voi.
Như xưa Đức Phật đã dạy về sự khổ của thân năm ấm cho các đệ tử nghe.
Trong Kinh dạy rằng: Những kẻ ham mê dục lạc cùng khen tặng nhau Sa Môn Cù Đàm, Bà La Môn, thường nói về việc dự phòng việc xảy ra trong tương lai, cho dục là ô uế bất tịnh, không như chúng ta, lòng say mê sắc đẹp, vui chơi với năm thứ dục lạc, mịn màng trơn láng, có lỗi lầm gì đâu?
Nếu có chúng sinh nào chấp chặt vào những lý lẽ trên mà làm những việc bất thiện thì sau khi chết phải đọa vào địa ngục.
Khi đọa vào địa ngục rồi, bây giờ họ mới tỉnh ngộ ăn năn tự trách: Chúng ta là những kẻ không chịu tin Sa Môn, Bà La Môn.
Các Ngài dạy rằng: Dâm dục là hành vi nhơ nhớp, bất tịnh.
Chính bởi hành vi dâm dục nhơ nhớp ấy mà phải chịu vô lượng khổ, chẳng có ngày thoát khỏi, chính mình gây ra thì oán trách ai?
Cho nên nói: Ăn trái, trước ngọt sau đắng. Như ta bỏ vào miệng một trái gì đó ngon ngọt, khi ăn lòng rất vui sướng, nhưng sau đó thì bị bệnh.
Sau đây là nói thí dụ để người có trí hiểu rõ hơn: Như có người trí nhờ siêng năng cố gắng mà thành tựu đạo nghiệp, hoặc có người trí quở trách, cấm ngăn, hoặc có người trí nhờ quán xét chí hướng tiến lên của mình mà được hóa độ, hoặc có người trí được dạy bảo khuyên gắng dần dần mà được hóa độ, hoặc có người trí do đi nhiều nơi xa nhìn thấy sự đời mà tự tỏ ngộ…
Đức Thế Tôn quán xét tâm nhiễm của mỗi người mà Ngài biết cách chữa trị như thế nào để bốc thuốc. Nhờ đó mà chúng sinh dần dần được tỏ ngộ. Nhờ vâng giữ lời dạy của Như Lai mà biết xấu hổ giữ mình, lần hồi dứt hết phiền não, tâm được giải thoát.
Sau đó mới biết rằng dâm dục là một thứ bệnh, trước ngọt nhưng sau thì đắng.
Ngục bằng sắt, đồng, thiếc
Nhưng cũng chưa chắc chắn
Mê đắm sắc đẹp kia
Ngục này mới chắc chắn.
Xưa, có kẻ mắc tội bị giam trong ngục sắt. Anh tìm nhiều cách mong khỏi tội, hoặc dựa vào thế lực mạnh mẽ, hoặc dựa vào của cải, hoặc dựa vào dòng họ để được trắng án. Trong khi đó, ngôi nhà ngục ái dục trói buộc, phàm phu không thể thoát ra được.
Chỉ có Chư Phật ra đời dùng lửa trí tuệ thiêu đốt rừng bụi kết sử bao la, dùng kiếm bén chặt gọn cội gốc bảy kết sử, sau đó mới được giải thoát.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Bảy - Phẩm Nhân Duyên Nan đà Xuất Gia
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Năm - Kinh Người ở Giữ Cửa
Phật Thuyết Kinh đại Phương Tiện Phật Báo ân - Phẩm Chín - Phẩm Thân Cận
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Một - Phẩm Rắn - Kinh Cunda
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Bốn - Kinh Phật Thuyết Như Vậy - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Một