Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Một - Phẩm Sa Môn - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MƯỜI MỘT

PHẨM SA MÔN  

TẬP HAI  

Là rơi đường ác: Người ác lấy ác tự trói mình, không thể lìa khỏi ác tử. Rồi sau rơi vào ba đường ác.

Cho nên nói:

Là rơi đường ác.

Người hoàn toàn phạm giới

Dây quấn cây bị khô

Việc làm tự hại thân

Bị lửa giận đốt cháy.

Người hoàn toàn phạm giới: Trong tâm không hề có mảy may giới luật, cũng không có pháp trong sạch, như trong Khế Kinh nói.

Đức Phật bảo Ngài A Nan: Ta không thấy Điều Đạt còn mảy may pháp trong sạch nào trong tâm. Nếu như trong tâm thầy ấy còn mảy may pháp lành thì ta đã không báo trước rằng thầy ấy sẽ vào địa ngục.

Như có người bị té xuống hầm xí sâu không còn cựa quậy được nữa, có người thương xót muốn cứu sống cho y, ông này nhìn khắp coi thân y xem còn có chỗ nào sạch, không bị dính phân không và bảo: Ta muốn kéo nhà ngươi lên khỏi hố xí, nhưng khắp thân ông không có chỗ nào là không dính dơ, không còn chút chỗ sạch. Tội lỗi của người phạm giới hoàn toàn cũng giống như vậy.

Cho nên nói: Người hoàn toàn phạm giới.

Dây quấn cây bị khô: Như cây Tát Lô cành lá tươi đẹp sum suê, bị dây leo quấn nên cây điêu tàn, khô chết.

Cho nên nói: Dây quấn cây bị khô.

Việc làm tự hại thân: Tự rước họa để tự giết mình, bị mọi người ganh ghét, không khen ngợi công đức.

Cho nên nói: Việc làm tự hại thân.

Bị lửa giận đốt cháy: Núi Tuyết ở phía Bắc, có một giống cỏ tên là Y La Xoa Thiên, khắp thân cây chỗ nào cũng chứa chất độc, theo gió thổi, nó nhả chất độc khiến cỏ cây đều chết hết. Còn dưới biển thì có con cá tên Tự Hại. Nó nằm dưới cỏ rậm ven bờ nước.

Gió thổi, cỏ lay động chạm vào thân nó, nó tức giận, lửa giận đốt cháy làm thân thể phình lên, hai ba lần cỏ chạm vào mình thì nó chết.

Cho nên nói:

Bị lửa giận đốt cháy.

Gọi là Trưởng Lão

Không do tuổi già

Thân gầy tóc bạc

Ngu xuẩn mà thôi.

Gọi là Trưởng Lão, không do tuổi già: Hình hài lụ khụ vì tuổi trẻ qua rồi, không biết pháp cấm, cũng không biết đâu là pháp thiện pháp ác, tốt xấu để tiến tu, cũng lại không biết đâu là giới và đâu không phải giới, thế nào là phạm và thế nào là không phạm, không biết thế nào là nhẹ, thế nào là nặng, không biết rõ hai trăm năm mươi giới, oai nghi để tiến tu. Còn như thân hình cằn cỗi, mặt nhăn, da dùn, giống như trâu già, voi già, dẫu đến tuổi già, chúng vẫn là ngu xuẩn mà thôi.

Có thể nói rằng tuổi ăn khoẻ, không phải tuổi trí tuệ. Không tụng Kinh, luật, luận, không biết quán sát ba nghiệp, luống tự chịu khổ.

Cho nên nói: Gọi là Trưởng Lão, không do tuổi già.

Thân gầy tóc bạc, ngu xuẩn mà thôi: Thân đã già khụ, mạng sống chỉ còn trong một sớm, một chiều, rồi sẽ đến chỗ Vua Diêm La. Bị Vua Diêm La hỏi, không thể nào đáp được, vì khi còn sống trên đời tâm ngu si đã tự trói mình nên không làm được việc lành nào. Sống lâu trên đời vô ích vì không biết quán sát ba nghiệp.

Cho nên nói:

Thân gầy tóc bạc,

Chỉ là ngu xuẩn mà thôi.

Xả bỏ tội, phước

Tịnh tu phạm hạnh

Trong sạch thanh khiết

Gọi là Trưởng Lão.

Xả bỏ tội, phước: Phước là được sinh lên Cõi Trời, cõi người. Tội là đọa vào địa ngục, súc sanh. Nhưng người này đã cắt đứt hết tội phước, không còn sinh trở lại, đã nhổ tận gốc rễ tội phước, không gieo trồng nhân hậu hữu đời tương lai.

Cho nên nói: Xả bỏ tội, phước.

Tịnh tu phạm hạnh: Tám con đường của Hiền Thánh cũng là phạm hạnh. Nương theo phạm hạnh này mà đến nơi tốt đẹp, diệt hết nguồn gốc mọi đau khổ.

Cho nên nói: Tịnh tu phạm hạnh.

Trong sạch thanh khiết: Bậc Trưởng Lão ấy đã đầy đủ pháp già.

Xưa, Vua Ba Tư Nặc cai trị nhân dân, không được ngoại đạo gần xa kính phục, sáu vị giáo chủ ngoại đạo cùng nhau đến chỗ Vua Ba Tư Nặc mà chất vấn rằng: Sa Môn Cù Đàm khoe khoang với đời, tự xưng rằng mình là người độc bộ bậc nhất, không có bạn bè.

Vua hãy đến chỗ Sa Môn ấy và nói với ông ta rằng: Này Sa Môn Cù Đàm, ông hãy xét lại coi mình đã chứng được đạo Vô Thượng Đẳng Chánh Giác hay chưa?

Nếu ông ta trả lời là đã thành Đẳng Chánh Giác, thì Đại Vương hãy hỏi ông ta rằng: Bất Lan Ca Diếp… là những vị đã xuất gia học đạo từ bé thơ, nay tuổi đã già, thân đã yếu đuối, tinh thần mệt mỏi thế mà còn chưa chứng được Phật đạo.

Từ khi ông học đạo đến nay chưa được bao lâu, hai mươi chín tuổi mới xuất gia, tự nói rằng tu khổ hạnh sáu năm thì làm sao có thể chứng thành Đẳng Chánh Giác được chứ?

Lúc bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc vâng lời chỉ dạy của sáu vị giáo chủ ngoại đạo, ông bèn đến chỗ Thế Tôn, thăm hỏi Ngài, rồi ngồi sang một bên.

Giây lát đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đến trước Phật bạch: Sa Môn Cù Đàm hãy xét coi mình đã chứng được quả vị Đẳng Chánh Giác hay chưa?

Đức Phật bảo Vua: Như Đại Vương hỏi, thì ta đã thành đạo Đẳng Chánh Giác rồi.

Sáu vị giáo chủ ngoại đạo như Bất Lan… họ đã xuất gia học đạo từ bé thơ, đến nay thì tuổi họ đã cao, tinh thần mệt mỏi, nhưng vẫn chưa được đạo vô thượng, huống nữa là Cù Đàm.

Thuở nhỏ Ngài ở trong cung, tha hồ hưởng năm thứ dục lạc, không chịu đựng sự lạnh lẽo, cho đến khi hai mươi chín tuổi, Ngài mới xuất gia cầu đạo, rồi khoe khoang với mọi người rằng mình được đạo vô thượng ư?

Đức Phật bảo Vua: Trên đời này, có bốn việc mà ta không nên xem thường.

Bốn điều ấy: Một là con rắn độc khi giận dữ nổi lên, thì miệng phun nọc độc đốt cháy cả núi non đồng ruộng. Các loài chúng sinh hữu hình đều bị chất độc ấy làm hại. Đó là việc thứ nhất không nên xem thường.

Hai là đốm lửa nhỏ, cũng không nên xem thường, vì nó có khả năng đốt cháy muôn vật. Đó là việc thứ hai không nên xem thường.

Ba là thầy Tỳ Kheo tuổi trẻ, nhưng cũng không nên xem thường vì thầy ấy có thần túc tự tại, biến hóa phi thường, dùng trí tuệ khéo léo dạy dỗ mọi người cũng không cùng cực. Đó là việc thứ ba không nên xem thường.

Bốn là vị Thái Tử dù tuổi còn nhỏ cũng không nên xem thường.

Vì sao?

Vì vị Thái Tử này có quyền sinh sát tự do, tùy ý truyền lệnh, ai cũng tuân theo. Đó là việc thứ tư không nên xem thường.

Lúc ấy, Vua Ba Tư Nặc nghe Đức Phật dạy vui mừng hớn hở, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, trán lạy sát chân Phật rồi ra về.

Cho nên nói: Trong sạch thanh khiết, gọi là Trưởng Lão.

Gọi là Sa Môn

Đâu phải cạo tóc

Nói dối tham đắm

Tham dục như phàm.

Gọi là Sa Môn, đâu phải cạo tóc: Lúc ấy Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca Lan Đà, thành La Duyệt Kỳ.

Ngài bảo các Tỳ Kheo: Nước Ma Kiệt Đà này được lợi ích tốt đẹp vì có Như Lai và chư đệ tử Hiền Thánh vây quanh. Ở trong thành La Duyệt Kỳ, thuộc pHạm vi nước này, ta đã nhập Hạ ở đây chín mươi ngày. Lúc ấy, tiếng tăm vang khắp mười sáu nước lớn.

Nghe Như Lai khen ngợi như vậy, các đệ tử Hiền Thánh và Tỳ Kheo Tăng cùng nhân dân cả nước càng thêm vui mừng, sinh tâm cung kính cúng dường y phục, thức ăn, giường nệm, đồ nằm, thuốc men trị bệnh.

Trong khi đó, có vô lượng chúng sinh tại gia nghèo thiếu, đêm ngày làm không đủ sống, thấy các Tỳ Kheo được cúng dường tự nhiên, các vị này chẳng những tự nuôi mình, lại khỏi phải nộp riêng cho quan.

Với suy nghĩ như vậy nên mọi người cùng rủ nhau xuất gia học đạo. Trở thành Sa Môn rồi, họ không có khả năng tu hành theo giáo pháp, đọc tụng Kinh, Luật, A Tỳ Đàm, cũng không ngồi thiền, tụng Kinh, làm việc giúp chúng, thọ dụng tín thí mà bàn luận những việc không cần thiết.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Lúc các thầy còn tại gia, không lo gia nghiệp, thiếu thốn y phục, thấy các Tỳ Kheo được cúng dường tự nhiên, các thầy thấy vậy tham đắm nên xuất gia học đạo. Hình tướng là Sa Môn, nhưng tâm như cọp đói.

Các thầy có đạo đức gì làm tươi nhuận giáo pháp của ta?

Lúc ấy, Như Lai liền nói bài kệ:

Đời gọi thầy Sa Môn

Thầy cũng nói Sa Môn

Thân tuy là Sa Môn

Nhưng như hạc rình cá.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, nhận của tín thí, bảo rằng lẽ tự nhiên là như vậy, nhưng nhân quả báo ứng, một khi đã đến rồi thì có ức Phật cũng không cứu nổi. Trong số ấy, những người có căn tánh lanh lợi, trí tuệ bén nhạy liền tự sửa đổi lỗi lầm mà vang lời dạy bảo của Như Lai. Còn những vị căn tánh chậm lụt thì không thể sửa đổi, tự rước họa vào mình.

Cho nên nói: Gọi là Sa Môn, đâu phải cạo tóc.

Nói dối tham đắm, tham dục như phàm: Tỳ Kheo các thầy tương ưng với kẻ xấu, bỏ hẳn pháp lành thì thật không phải là Sa Môn.

Các thầy tự xưng là Sa Môn, nhưng chỉ giống Sa Môn với pháp phục bên ngoài.

Đức Như Lai lại nói bài kệ này:

Như lìa mà không lìa

Ca Sa trừ, không trừ

Trì bát thật không trì

Chẳng tục, chẳng Sa Môn.

Mây đùn nhưng không mưa

Lúa tốt, không kết hạt

Tỳ Kheo lìa Tỳ Kheo

Như ngày đèn không sáng.

Cho nên nói:

Nói dối tham đắm, 

Tham dục như phàm.

Gọi là Sa Môn

Mở rộng chánh đạo

Dứt bỏ tâm vọng

Kết thô không sinh.

Gọi là Sa Môn: Thuở xưa, có một kẻ ngu tính tình du đãng, không phân biệt được phải quấy, tốt xấu, thấy mấy chục người đang khiêng xác chết ra ngoài thành, lại thấy mọi người rải hương hoa lên xác chết. Sau đó, người ngu này về nhà nằm ngủ, trước đó y có treo một vò hoa tước kim trên xà nhà, bỗng nhiên lúc ấy, sợi dây bị đứt, hoa rơi vãi trên người.

Y cất tiếng kêu người trong nhà đến bảo: Nay ta đã chết sao không khiêng đem đi bỏ.

Người nhà hỏi: Vì sao ngươi nói rằng mình đã chết?

Y bảo: Các người không thấy hoa rải trên mình ta đó ư?

Người nhà đáp: Không thấy.

Rải hoa lên người sao gọi là chết?

Chết là không còn thở ra, thở vào kia chứ! Thân như cây khô, không còn cử động, không còn hơi ấm, thần thức đã đi rồi. Thân thể cứng đờ, không còn làm việc được nữa, như vậy mới gọi là chết. Tuy ngươi nói là chết, chỉ là giống như chết, mà không phải chết thật.

Các Tỳ Kheo cũng lại như vậy. Nay, Tỳ Kheo các thầy chỉ giống Tỳ Kheo, chứ không phải Tỳ Kheo.

Vì Tỳ Kheo chân thật thì phải oai nghi đầy đủ, thấy chút lỗi nhỏ cũng sinh tâm sợ sệt, huống gì là lỗi lớn?

Các hạnh lành không thiếu, tâm chí chỉ hướng về ba con đường lớn là đường lên Phật, Bích Chi Phật và A La Hán. Ai đầy đủ oai nghi giới luật, như thế mới gọi là Sa Môn. Các thầy cạo râu tóc, tuy bên ngoài mặc Ca Sa, nhưng bên trong gian dối.

Cho nên nói: Gọi là bậc Sa Môn, mở rộng chánh đạo.

Dứt bỏ tâm vọng, kết thô không sinh: Các pháp xấu ác đã hoàn toàn dứt hết, không còn phát sinh nữa. Thô là phần căn bản trong các kết, gốc rễ đã nhổ hết thì cành lá cũng khô chết.

Cho nên nói: Dứt bỏ tâm vọng, kết sử thô không còn phát sinh nữa.

Dứt bỏ điều ác

Gọi là Sa Môn

Phạm Chí dứt ác

Sa Môn giữ hạnh

Tự dứt cấu uế

Được gọi là đạo.

Dứt bỏ điều ác, gọi là Sa Môn: Đã dứt bỏ điều ác như trong Khế Kinh nói:

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Như người đời đều gọi các thầy là Sa Môn! Sa Môn.

Các Tỳ Kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, đúng vậy.

Người ngu gọi chúng con là Sa Môn! Sa Môn.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng: Nếu đúng như vậy, thì các thầy phải giữ hạnh Sa Môn, như Phạm Chí giữ hạnh Phạm Chí. Thế nên, Tỳ Kheo thực hành giống như Sa Môn, cũng như Phạm Chí.

Vì sao?

Vì Sa Môn, Phạm Chí việc làm của họ đều thanh tịnh, ý nguyện điều gì, chắc chắn đúng như tâm nghĩ.

Thế nào là pháp Sa Môn, Phạm Chí?

Pháp Sa Môn, Phạm Chí là thân làm việc thanh tịnh, hoặc lại nghĩ như vậy: Những việc phải làm ta đã làm xong. Miệng, ý cũng lại như vậy, nhờ đó được dưỡng thọ. Đó gọi là pháp Sa Môn, Phạm Chí chỗ khác nhau là Phạm Chí dứt bỏ việc ác, còn Sa Môn giữ hạnh. Phạm Chí tu hành thì đứng đầu là thái độ cống cao.

Họ cậy vào nghề khéo của mình mà tự bảo nhau: Bà La Môn chúng ta được sinh ra từ miệng đấng Phạm Thiên, dòng Sát Đế Lợi được sinh từ rốn Phạm Thiên, dòng Tỳ Xa được sinh ra từ hông Phạm Thiên, dòng Thủ Đà La được sinh từ gót chân Phạm Thiên. Vì cho rằng Phạm Thiên là cha nên họ tự khoe khoang, kiêu ngạo, nghĩ rằng mình là bậc nhất.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Pháp Phạm Chí thật ra không phải vậy! Người tu phạm hạnh là phải rốt ráo thanh tịnh, dứt bỏ pháp bất thiện. Nhưng nay các Phạm Chí rước họa vào thân. 

Họ chứa nuôi vợ con, trai gái đầy nhà, hạnh của họ không thuần khiết, vậy mà họ lại tự xưng: Ta sinh ra từ miệng Phạm Thiên.

Cho nên nói: Phạm Chí dứt ác, Sa Môn giữ hạnh.

Tự dứt cấu uế, được gọi là đạo: Tỳ Kheo tu hành tự dứt sạch mọi ô uế của mình, các pháp ác, bất thiện đều dứt hẳn không còn sót, dạo chơi trong tám phẩm đạo của Bậc Thánh Hiền.

Cho nên nói: Tự trừ cấu uế, được gọi là đạo.

Cấu uế có ba phẩm là: Thượng, trung, hạ.

Ba phẩm lại chia thành chín bậc: Thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Các lớp kết sử ấy làm nhuộm dơ tâm người, phải dứt bỏ hết, tu hạnh thanh tịnh.

Hoặc có Phạm Chí sinh tâm tà kiến, ý họ bảo rằng bên trong không có nhơ bẩn, mà nhơ bẩn ấy đến từ bên ngoài. Hoặc có Phạm Chí lội xuống sông, hoặc xuống ao Tam Hoa, hoặc lội xuống suối của loài người, chẳng phải loài người để tắm gội, rửa sạch hết mọi nhơ bẩn bên ngoài, nhưng không thể nào dứt bỏ được tâm trói buộc.

Đức Thế Tôn dạy rằng: Nếu người tu phạm hạnh muốn rốt ráo thanh tịnh, dứt bỏ bụi nhơ thì phải giữ chắc trí tuệ bình đẳng vô thượng mới dứt bỏ được cấu uế kia.

Vì sao?

Vì bụi nhơ bên ngoài thân là cái mà con người không thích. Dùng nghĩa bậc nhất để dứt bỏ cấu uế thì được các Trời, loài người tôn kính. Bụi nhơ ở nhân gian đã làm cho con người rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Bụi nhơ ở nhân gian, dù được xông ướp bởi hoa hương, vẫn phát sinh lại như cũ. Còn người đã dứt bỏ hết kết sử, xông ướp bằng hương thơm của giới, mùi thơm ấy thơm mãi, không đâu là không ngửi thấy.

Cho nên nói: Tự dứt cấu uế, được gọi là đạo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần