Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Một - Phẩm Sa Môn - Tập Một
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM MƯỜI MỘT
PHẨM SA MÔN
TẬP MỘT
Ngang dòng, qua bờ
Vô dục như Phạm
Biết hành đã hết
Được đức vô lượng.
Ngang dòng, qua bờ: Dòng sông này là cội gốc của kết sử, chảy ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp giống như các dòng đều chảy ra biển.
Kết sử của phàm phu cũng như vậy, chảy ra các trần lao: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người tu hành phải cầm gươm trí tuệ cắt đứt các kết sử, không còn chảy ra các kết sử trói buộc.
Cho nên nói: Cắt ngang dòng kết sử, qua bờ bên kia.
Vô dục như Phạm: Suy nghĩ dứt bỏ hết mọi ái dục, giống như các Phạm Chí đêm ngày tinh tấn siêng năng, thân thể khổ nhọc bên những xác chết nằm ngoài Trời, ngày đêm nhón chân, kính thờ mặt trời, mặt trăng, mong cầu sinh lên Cõi Trời Phạm Thiên, được phước Trời kia, làm Phạm Thiên cao cả tôn quý. Cho nên ngay đây, trong cõi đời này, họ chuyên tâm nhất ý, suy nghĩ cắt bỏ hết ái dục, tu phạm hạnh, trong sạch.
Cho nên nói: Vô dục như Phạm.
Biết hành đã hết: Người không còn ái dục thì trong ngoài thanh tịnh. Tâm họ không còn bụi nhơ.
Cho nên nói: Biết mọi hành đã hết sạch.
Được đức vô lượng: Người như thế đó, được sự cúng dường vô lượng. Bố thí cho tất cả hàng phàm phu không bằng bố thí cho một vị Tu Đà Hoàn.
Vì sao?
Vì vị này sẽ dứt tất cả sinh tử, không còn sinh trong ba cõi. Bậc Tư Đà Hàm, A Na Hàm các hạnh đầy đủ, công đức vô lượng. Bố thí cho một trăm vị Tu Đà Hoàn, không bằng bố thí cho một vị A Na Hàm.
Cho nên nói:
Được phước đức vô lượng.
Người trí lập hạnh
Tinh tấn chứng quả
Tu hành bê trễ
Lại thêm bụi nhơ.
Người trí lập hạnh: Chẳng hạn tu tập tinh tấn, nhập định, ngồi thiền, tụng Kinh, làm công việc giúp cho đại chúng. Giữ tâm mạnh mẽ, không hề yếu đuối, đêm ngày chăm chỉ, không chút biếng nhác.
Cho nên nói: Người trí lập hạnh, tinh tấn chứng quả.
Tu hành bê trễ: Người phàm phu xuất gia thì phải siêng năng, ngày đi kinh hành, đêm thiền định, thực hành theo lời Phật dạy là làm việc giúp đỡ đại chúng, lễ bái Tháp miếu. Còn ai lười biếng, không siêng tu ba nghiệp, thì rớt trở lại phàm phu, không đến chỗ rốt ráo.
Cho nên nói: Tu hành bê trễ.
Lại thêm bụi nhơ: Người phàm phu tu hành không bền bỉ nên dâm, nộ, si thêm nhiều. Đã xuất gia học đạo, nhận của tín thí nhưng không chịu suy tư đạo đức, mà lại luận bàn đủ thứ chuyện vu vơ, làm những việc không chân chánh, không đọc tụng học tập lãnh thọ giáo pháp.
Cho nên nói:
Lại thêm bụi nhơ.
Tu hành bê trễ
Đối thiện và ác
Phạm hạnh bất tịnh
Không chứng quả lớn.
Tu hành bê trễ: Muốn xây dựng công trình gì thì trước phải nghiên cứu kỹ lưỡng, có vậy mới đạt kết quả, không bao giờ lui sụt giữa chừng. Nhưng người tu hành kia tâm ý thả trôi, không gắng sức nghiên cứu, cũng không chịu đọc tụng, tu tập nên không thành tựu. Không ngồi thiền, tụng Kinh, làm việc giúp đỡ chúng.
Cho nên nói: Tu hành bê trễ.
Đối thiện và ác: Người ta muốn đạt kết quả cho việc làm dù thiện hay ác thì cũng phải lập chí. Ý muốn làm điều thiện thì sẽ thành điều thiện, còn ý muốn làm điều ác thì sẽ thành điều ác. Tập quen nhiều thói nhơ bẩn thì kết sử sẽ theo mình. Còn tập quen nhiều đức tính thiện thì kết sử liền dứt mất.
Có người tu khổ hạnh, đủ các oai nghi, lao thân khổ nhọc bên xác chết nằm ngoài Trời, kính thờ mặt trời, mặt trăng, tự nướng mình bằng năm thứ lửa, nằm ngủ trên gai nhọn, không ăn uống, chỉ nuốt không khí. Hoặc có người ăn dưa trái để thành tựu ước nguyện.
Cho nên nói: Đối thiện và ác.
Phạm hạnh bất tịnh: Hoặc có người giữ giới để cầu mong phước Trời, cầu sinh lên Cõi Trời Phạm Thiên, hoặc cầu làm Trời Đế Thích, Ma Vương sáu Cõi Trời Dục. Hoặc có người giữ giới để được làm Thánh vương, Điển chủ trong bốn châu.
Cho nên nói: Phạm hạnh bất tịnh.
Không chứng quả lớn: Quả cao nhất trong các quả là giải thoát. Nó tột cùng cao cả, không có gì sánh nổi. Nhưng chỉ được quả báo mà không được chứng quả.
Cho nên nói: Không chứng quả lớn lao. Thí như nắm cỏ dại, nếu cầm lơi lỏng thì rách tay, Sa Môn không giữ giới cấm thì địa ngục ghi tên, chính mình thành kẻ cướp.
Giống như người học thuật chiến đấu, phải biết thế cưỡi ngựa, đánh xe, phi luân, ném dây, nhảy qua cầu, đều phải biết rành rẽ. Lại phải học cách làm ruộng tại gia, biết cách thu gom cất chứa lúa, biết coi hướng gió khi đốt đồng hoang. Khi cắt lúa phải biết cỏ cứng, mềm. Cỏ cứng thì phải nắm cho chắc, nắm lơi lỏng thì bị rách tay. Cỏ mềm mà có nắm lơi lỏng cũng không bị rách tay.
Cho nên nói như nắm cỏ dại, nắm lơi lỏng thì rách tay. Sa Môn tu tập thì cũng lại như vậy. Không giữ giới vững chắc, trái phạm pháp cấm, hoặc tu hoặc bỏ. Nếu có người tu nhưng trước không học giới, nhập định là đường tắt để phân biệt trí tuệ sáng suốt, rồi thì hoặc hoàn toàn bỏ giới bản, hoặc đánh mất hết phân nửa.
Tất cả đều do không làm theo thiện tri thức mà lại gần gũi bạn xấu, vì thế bị đọa vào địa ngục. Cho nên nói Sa Môn không giữ giới cấm thì ngục ghi tên, vì chính mình thành kẻ cướp.
Như người nhổ cỏ dại
Nắm chắc không rách tay
Sa Môn giữ giới cấm
Càng đến gần Niết Bàn.
Như người nhổ cỏ dại: Về cách học phải biết hết học thuật của thầy dạy, sáu nghề kỹ xảo cũng phải học cho đầy đủ, như khi chiến đấu thì phải đủ dụng cụ chiến đấu. Thân tâm an ổn, tay cầm cung tên, hễ bắn chỗ nào thì đều trúng đích. Nhổ cỏ dại, cắt lúa, việc thu hoạch lúa thóc, cất giữ cũng như vậy.
Cho nên nói: Nắm chắc thì không rách tay, Sa Môn giữ giới cấm, ngày càng đến gần Niết Bàn. Sa Môn giữ giới vững chắc thì khó lay động như núi không ai lay động dời đi chỗ khác được, không bị ngoại đạo tà kiến phá hoại, đã lìa bạn xấu, mà cùng thiện tri thức bền bỉ học theo họ, biết chỗ hướng đến Niết Bàn. Đó cũng là Sa Môn giữ giới cấm, dứt bỏ mọi phiền não, đạt được Niết Bàn.
Khó hiểu, khó thấu
Sa Môn trí kém
Bị nhiều phiền nhiễu
Người ngu bị khổ.
Khó hiểu, khó thấu: Học đạo để được thành Phật là khó. Xuất gia gặp được thầy chân chánh là khó. Học sự nghiệp Hiền Thánh và pháp vô thượng sâu kín thật là khó.
Cho nên nói: Khó hiểu, khó thấu suốt.
Sa Môn trí kém: Người thiếu trí tuệ không được làm Sa Môn, vì khi còn sống ở thế tục đã bị đắm nhiễm những việc không chân chánh, không thể lìa bỏ, hoặc nồi niêu bếp núc, nhà cửa thủng dột không thể bỏ được, hoặc cùng chuyện chăn gối bất tịnh không thể bỏ được.
Hoặc có vợ mù, tật nguyền, tiều tụy không thể bỏ được, cho nên Đức Phật nói con ruồi khốn đốn vì lưới nhện, con chim khốn đốn vì lưới giăng, con voi khốn đốn vì khóa sát cột cứng, ngựa chứng khốn đốn vì dây cương. Người học đạo biết suy xét những điều ấy rồi có khả năng bỏ hẳn gia nghiệp, bỏ cả vợ con, dứt trừ năm dục, xa lìa tám pháp, liền được hành đạo, không còn dính mắc phiền lụy thế gian.
Người kém trí tuệ như ruồi bay vào lưới, như chim mắc bẫy, muốn bay ra rất khó?
Cho nên nói: Sa Môn trí kém.
Bị nhiều phiền nhiễu: Hoặc dùng tâm đạo với nhiều phương cách để khuyên bảo mọi người xuất gia học đạo, nhưng họ không chịu tin theo. Người có tâm như lá sen, không bị dính nước những khuyên họ xuất gia mà còn khuyên giữ tám giới quan trai, nhưng họ cũng không tin theo.
Và, không những khuyên giữ tám giới quan trai mà còn khuyên trong khoảnh khắc nghĩ đến điều thiện thôi, nhưng họ cũng không nghe theo, huống gì là lìa bỏ gia đình đi học đạo, việc ấy không thể thực hiện được.
Như Vua ân xá cho người ở tù được ra khỏi ngục mà về. Kẻ chán ngán cảnh sống ngục tù, vừa hay tin ấy, họ muốn ra ngay như ra khỏi nhà lửa đang cháy. Còn kẻ ngu thì quyến luyến cảnh ngục tù không muốn ra.
Đức Như Lai xuất hiện trên cõi đời, Ngài mở rộng lòng xót thương khắp Thế Giới tam thiên đại thiên, cởi bỏ hết mọi sự ràng buộc vững chắc của thế tục, giúp mọi người lần hồi ra khỏi sự sống chết.
Người trí là kẻ có mắt, vừa nghe nói có lòng từ ban rải là họ liền bỏ cả gia nghiệp, xuất gia học đạo ngay. Còn kẻ ngu si, thiếu phước, tâm không khai ngộ, đắm nhiễm phiền lụy thế gian, không chịu xuất gia, dù nghe có lòng từ ban rải nhưng họ cũng không cảm kích điều ấy chút nào.
Cho nên nói:
Bị nhiều phiền nhiễu,
Người ngu bị khổ.
Sa Môn làm việc gì
Buông ý không tự cấm
Mỗi bước thường dính mắc
Chỉ chạy theo tư tưởng.
Sa Môn làm việc gì: Tu theo pháp Sa Môn là không khởi tâm vọng. Người ngu hiểu lầm, cho rằng Sa Môn phải làm việc gì. Đối với việc chấm dứt tâm vọng không thích xuất gia.
Cho nên nói: Sa Môn làm việc gì.
Buông ý không tự cấm: Phải tự kiềm chế, không để cho sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối. Như người giữ mạ non, không cho trâu ra ăn lúa phá hại, như móc sắt điều khiển voi. Tâm người cũng lại như thế, thường phải chế ngự, không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp được dịp làm hại.
Cho nên nói: Buông ý không tự cấm.
Mỗi bước thường dính mắc: Người tu hành giữ tâm không chặt thì khác gì áo mỏng phất phơ theo chiều gió, hay như sợi long tơ hễ bị gió thổi là bay. Một ý niệm khởi lên là bao nhiêu vọng tưởng tuôn trào theo muôn mối, bị ba tư tưởng kéo lôi.
Ba tư tưởng ấy là:
Một là tư tưởng về tham dục.
Hai là tư tưởng về giận dữ.
Ba là tư tưởng bỏn sẻn ganh ghét.
Ba dòng tư tưởng này thật khó chế ngự, vì nó đi không để lại dấu vết, nó đến cũng không hình bóng.
Tư tưởng do tâm sai sử, muốn yên định thì thật là khó được.
Cho nên nói:
Mỗi bước thường dính mắc,
Chỉ chạy theo tư tưởng.
Học khó, bỏ tội khó
Sống tại gia cũng khó
Sống chung hưởng lợi khó
Ra ba cõi gian nan.
Tỳ Kheo đã xuất gia mà tâm thường đắm nhiễm thế tục, cứ nhớ lại gia nghiệp, không làm việc phước đức, có lúc tự nghĩ sinh tâm hối hận, vì sao xuất gia. Tu pháp Sa Môn mà tâm còn lo buồn như người gặp tang. Con nai hoảng sợ bỏ chạy vì tính nó đa nghi, tâm như khỉ vượn.
Tâm thầy Tỳ Kheo kia không yên định cũng giống như thế, chỉ nghĩ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sống trái giới luật, không còn đạo tâm, lại chỉ nghĩ những việc phiền lụy thế tục. Do đó tự tích chứa tội lỗi, không đến được nơi vắng lặng hoàn toàn.
Cho nên nói: Học đạo đã khó, bỏ tội càng khó. Sống tại gia cũng khó.
Sống chung hưởng lợi khó: Như Khế Kinh có nói.
Đức Phật dạy: Tỳ Kheo sống nhờ ở quê người là khó, xin thức ăn người nghèo là khó, sống chung cùng hưởng quyền lợi là khó. Ngày nay, nếu Tỳ Kheo các thầy đã trở thành người khất thực thì phải tự khiêm nhường, đừng kiêu căn theo người, dù cho được món ngon hay dở chớ sinh lòng khen chê.
Cho nên nói: Sống chung cùng hưởng lợi dưỡng là khó.
Ra ba cõi gian nan: Trải qua cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, cõi súc sanh.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Các thầy xuất gia với mục đích là muốn thoát hẳn ba cõi, không còn sinh lại trong ba cõi nữa. Vì thế mới bỏ cả gia nghiệp, lìa hẳn vợ con là đều muốn dứt hẳn ba cõi, không muốn sinh lại ba cõi. Tỳ Kheo các thầy đã chứa nhóm nghiệp nhân ba cõi từ hồi nào cho đến giờ, chịu khổ vô lượng trải qua vô số kiếp.
Cho nên nói:
Ra khỏi ba cõi là rất gian nan.
Ca Sa khoác vai
Mà không bỏ ác
Làm mọi điều ác
Là rơi đường ác.
Ca Sa khoác vai: Hoặc có người học đạo, bên ngoài mặc Ca Sa mà trong tâm làm việc bất thiện. Thuở xưa, có rất nhiều thầy Tỳ Kheo sống nơi rừng núi, nơi ít ai lui tới. Trong khi đó, chốn xóm làng quận huyện là nơi đãi đằng vô số. Trong số những vị ấy, có một thầy Tỳ Kheo rất ham thích thức ăn tương, thanh khiết. Thầy mặc Ca Sa bằng thứ vải mịn tốt. Đêm ngày luận bàn, tâm không lìa tham dục.
Lúc ấy, thần cây, thần núi quán sát biết được tâm ý thầy Tỳ Kheo ấy sinh khởi ý tưởng tham dục, các vị thần này muốn ngăn cản điều ấy, nên hiện thân người mà nói bài tụng rằng:
Sợ chết nên tâm sợ
Giả danh làm Sa Môn
Thân mặc Ca Sa Tăng
Như trâu già đuôi dài.
Lúc bấy giờ các Tỳ Kheo nghe thần nói bài kệ xong, sinh tâm rất tức giận.
Họ liền bảo các thần:
Ông mắng chúng tôi là trâu già phải không?
Lúc ấy các thần đáp bằng bài kệ:
Ta không hài tên họ
Cũng không lựa người nào
Ai là người uế hạnh
Là ta nói người ấy.
Cho nên nói: Áo Ca Sa khoác vai.
Mà không bỏ ác: Người tu hành làm đủ các thứ việc ác, không kiềm chế tham dục, không giữ gìn thân, miệng, ý, các giác quan không thanh tịnh, buông lung tự do, không biết thu nhiếp.
Cho nên nói: Mà không bỏ ác.
Làm mọi điều ác: Đêm ngày siêng năng không biếng nhác đối với việc làm ác.
Như Đức Phật nói trong Kinh Cù Đàm: Đức Phật bảo Ngài A Nan: Sau khi ta Niết Bàn, ở đời vị lai có các Tỳ Kheo thuộc những dòng họ tên tuổi không tu tập, không giữ giới, lại làm các điều ác, thân mặc Ca Sa mà không biết tự kiềm chế.
Cho nên nói: Làm mọi điều ác.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đồng Tử Vô Ngôn - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh ưu điền Vương
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Hai - Kinh Pháp Cú - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm địa Ngục
Phật Thuyết Kinh Trung ấm - Phẩm Mười Một - Phẩm Có Sắc Không Sắc
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Năm - Phẩm đại Như - Tập Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Tám - Phẩm Bốn Pháp - Phần Một