Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Sáu - Phẩm Giới - Tập Một
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM SÁU
PHẨM GIỚI
TẬP MỘT
Người trí giữ giới
Được ba phước báu
Được lợi tiếng thơm
Sau sinh lên Trời.
Thuở ấy, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.
Ngài bảo các Tỳ Kheo: Người trí tuệ cầu ba pháp thì thường phải giữ gìn giới cấm.
Thế nào là ba pháp?
1. Để xứng đáng là người lành thì phải cẩn thận giữ giới luật.
2. Dù được lợi dưỡng cũng không nên hưởng hết.
3. Sau khi chết được sinh lên Cõi Trời.
Đó là người giữ giới. Người thực hành ba pháp này sẽ được phước nói trên.
Lúc bấy giờ, Đức Phật ở trước đại chúng, nói bài kệ:
Người trí giữ giới
Được ba phước báu
Được lợi tiếng thơm
Sau sinh lên Trời
Thường thấy pháp xứ
Giữ giới trong sạch
Được cái thấy đúng
Tốt nhất trong tốt.
Giữ giới thì an
Khiến thân không não
Giấc ngủ yên bình
Thức dậy thường vui.
Lúc ấy, mọi người trong hội nghe lời Phật dạy, vui mừng thực hành.
Giới trọn, già yên
Giới khéo an ổn
Tuệ là vật báu
Phước, ai trộm được.
Giới trọn, già yên: Người giữ giới dù đến tuổi già nua vẫn được Trời, Rồng, các thần thường theo giúp đỡ. A Tu La, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân, Phi Nhân, Cưu Bàn Trà, Thất Xa Giá Na, La Sát… các vị ấy thường theo giúp đỡ, bảo vệ bậc Trưởng Lão giữ giới, đêm ngày theo bảo vệ như bóng theo hình.
Cho nên nói: Giới trọn, già yên.
Giới khéo an ổn: Nếu có chúng sinh tin tưởng, hướng về Như Lai thì họ đã đầy đủ cội gốc của lòng tin.
Tin có hai việc:
1. Tin không còn ngờ vực.
2. Tin có căn bản.
Không ai có thể làm cho người giữ giới sinh tâm làm điều ác, dù hạng ấy là Sa Môn, Phạm Chí, các Bà La Môn, các Trời Phạm, các ma đi nữa. Họ được Trời, người cúng dường.
Cho nên nói: Giới khéo an ổn.
Tuệ là vật báu: Tuệ cũng gọi là ánh sáng, cũng gọi là sang tỏ, cũng gọi là bó đuốc, cũng gọi là đèn, cũng gọi là con mắt, cũng gọi là mặt trời, cũng gọi là mặt trăng, cũng gọi là đống lửa lớn, cũng gọi là sự rực rỡ huy hoàng của các pháp. Giống như người đời có nhiều của cải, vật báu trên đời mà được an cư. Vật báu của người trí tuệ cũng như vậy. Gọi là vật báu của con người phải có đủ hai điều là công đức và trí tuệ sáng suốt.
Cho nên nói: Tuệ là vật báu của con người. Phước ấy không ai ăn trộm được.
Như trong Kinh Tạp A Hàm ghi: Có vị Trời đến chỗ Như Lai hỏi về ý nghĩa này: Vật gì lửa không đốt được, vật gì gió thổi không bay, vật gì gió không làm lay động, vật gì nước không nhận chìm, vật gì đất không làm hư, vật gì mà cả Vua, trộm cướp, sấm sét cũng không làm hư, vật gì để trong kho không ai giữ mà không hao tổn?
Lúc ấy, Đức Phật bảo vị Trời kia: Phước đức lửa không đốt được. Phước gió không động. Phước nước không nhận chìm. Phước đất không làm hư. Phước Vua, giặc không cướp được, sấm sét dữ dội không làm hư hại được. Phước để trong kho không ai giữ mà không hao tổn.
Các Trời nghe lời Phật dạy vui mừng hớn hở, lại khen ngợi Như Lai bằng bài kệ sau đây:
Lành thay! Bậc Tối Thắng
Là ánh sáng đời này
Chúng con làm điều lành
Được hưởng phước Cõi Trời.
Sau đó, các vị Trời lại dùng bài kệ để hỏi lại về việc ấy:
Gì già được yên?
Gì khéo an ổn?
Gì là vật báu?
Gì không trộm được?
Đức Thế Tôn đáp bằng bài tụng:
Giới trọn, già yên
Giới khéo an ổn
Tuệ là vật báu
Phước, ai trộm được.
Trời, người nghe lời Phật dạy ghi nhớ mãi, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đi chung quanh Phật ba vòng, bỗng nhiên họ biến mất trở về Cõi Trời.
Tu giới, bố thí
Làm phước được phước
Đời này, đời sau
Thường sinh chỗ an.
Tu giới, bố thí: Bố thí có hai việc: Một là giữ giới vững chắc, tu thêm hạnh bố thí nữa thì tự nhiên được quả báu tốt ở Cõi Trời, cõi người, tự nhiên được quả báo lành. Hai là bố thí cho người giữ giới thì được nhiều quả báo.
Cho nên nói: Giữ giới, bố thí.
Làm phước được phước: Hoặc có người giữ giới đầy đủ, nhưng không được học rộng thì được công đức chẳng có gì đáng nói. Lại có người đã giữ giới đầy đủ lại thêm học rộng trí tuệ, làm việc bố thí, thì vị đó được phước vô lượng.
Cho nên nói: Làm phước được phước.
Đời này, đời sau: Từ đời này đến đời sau, tâm thường an vui, tâm không hối tiếc bỏn sẻn.
Cho nên nói: Đời này, đời sau.
Thường sinh chỗ an: Hy vọng đầy đủ, tự nhiên hân hoan, tâm ý vui vẻ. Tự biết mình giữ giới đầy đủ, bố thí thanh tịnh chắc chắn nhận được quả báo công đức, không rơi vào đường tà. Lúc nào cũng vui vẻ, không còn phiền não. Bố thí cho người giữ giới và người học rộng cũng lại như thế.
Cho nên nói:
Thường sinh chỗ an.
Tỳ Kheo trì giới
Giữ gìn các căn
Ăn uống tiết độ
Ngủ nghỉ tỉnh thức.
Tỳ Kheo trì giới: Giữ tâm vững chắc, không để chao đảo, không bị kéo lôi bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Cho nên nói: Tỳ Kheo trì giới.
Giữ gìn các căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều đầy đủ không bị khuyết tật, ý không mê lầm, cũng không nghĩ điều gì khác. Nương theo các giác quan mà tu tập công hạnh tuyệt diệu.
Cho nên nói: Giữ gìn các căn.
Ăn uống tiết độ: Phải biết lường bụng mình, không ăn quá no cũng không tham ăn.
Tôn Giả Đàm Ma Nan Đề có nói: Ăn quá no thì tức bụng, ăn quá ít thì đuối sức, ăn uống vừa chừng như cán cân không giác không thiếu.
Tôn Giả Tăng Già La Sát soạn Kinh Tu Hành cũng nói như thế. Như có người bắt được nhiều chim, y nhốt trong cái lồng to, thường xuyên chăm sóc, cho ăn đúng giờ. Lông đuôi chim đã mọc dài, thường xuyên cắt bỏ bớt, lựa con mập béo để làm thịt hằng ngày.
Trong đó, có một con chim trong tâm tự nghĩ: Nếu ta ăn nhiều mau béo thì sẽ bị làm thịt, nhưng nếu nhịn đói không ăn thì cũng bỏ mạng. Ta phải tự liệu chừng, ăn ít, thịt da sa sút, nhưng lông vẫn mềm mại, ta sẽ chui ra khỏi lồng. Như đã nghĩ, nó bèn ăn ít đi. Lông vẫn mềm mại liền thoát như ý muốn.
Người tu hành cũng như thế, phải tự tính lường nếu ăn nhiều tâm sẽ bị mờ mệt, không tu hành gì được, không suy nghĩ được pháp lành, làm cho pháp ác thường xuyên tăng thêm. Tham dục, giận dữ, ngu si đều bởi ăn nhiều mà ra, không đạt được mục đích cuối cùng của việc tu tập. Trong Kinh, Đức Phật nói người ăn nhiều bị năm thứ khổ.
Năm thứ khổ ấy là:
1. Thường đi cầu.
2. Thường đi tiểu.
3. Ngủ nhiều.
4. Thân thể nặng nề không tu hành được.
5. Ăn nhiều khó tiêu.
Người ăn nhiều có năm thứ khổ, tự làm nhọc mình, không đến được chỗ rốt ráo. Cho nên Phật dạy, ăn phải biết tiết chế.
Ngủ nghỉ tỉnh thức: Đêm ngày phải tỉnh giác, buộc tâm ý vào thiền định. Nếu cơn buồn ngủ đến tấn công thì thòng một chân xuống giường. Nếu vẫn không xua tan được cơn buồn ngủ thì phải thả thòng cả hai chân xuống giường. Nếu buồn ngủ quá thì phải đi kinh hành.
Nếu đi kinh hành mà vẫn còn buồn ngủ thì dậy lấy nước rửa mặt. Nếu vẫn chưa tỉnh táo thì hãy ngước mắt nhìn sao Trời tự thức tỉnh ý chí của mình. Đầu hôm, giữa đêm cho đến rạng sang đều không được lười biếng.
Cho nên nói:
Ngủ nghỉ tỉnh thức.
Ý thường giác ngộ
Ngày đêm siêng tu
Lậu hết ý ngộ
Đạt được Niết Bàn.
Ý thường giác ngộ: Thân, miệng, ý thường được giác ngộ, dâm, nộ, si khởi lên liền dứt bỏ, không sinh phiền não thì được an ổn.
Cho nên nói: Ý thường giác ngộ.
Ngày đêm siêng tu: Ban ngày tu thế nào ban đêm cũng tu như thế, ban đêm tu thế nào ban ngày cũng tu như thế. Đầu hôm, giữa đêm, gần sáng cũng như vậy. Giữ tâm chuyên nhất không còn nghĩ gì khác.
Chỉ theo về với đạo, tư duy pháp mà tâm nghĩ cho nên nói: Ngày đêm siêng tu.
Lậu hết ý ngộ: Ý chí mạnh mẽ, cứng rắn thì có khả năng dứt sạch hết phiền não. Người có tâm lười biếng thì không thể dứt sạch phiền não, không thể tinh tấn đối với việc tu tập. Cho nên lui sụt xuống hàng phàm phu. Nhưng người tu hành ấy ngày đêm tinh tấn như cứu lửa đang cháy trên đầu, giữ tâm mạnh mẽ nên không còn lo sợ nguy hiểm, đặt chí nguyện làm đầu là dứt bỏ kết sử, diệt hết lậu hoặc.
Cho nên nói: Lậu hết ý ngộ.
Đạt được Niết Bàn: Mọi việc phải làm đã làm xong, tai họa phiền não ở đời đã dứt hẳn, không còn sinh trở lại nữa. Mong nhập Niết Bàn, cởi mở hoàn toàn. Mọi trói buộc đắm nhiễm đã làm dơ bẩn con người, làm cho chúng biến mất không hiẹn khởi nữa. Tiến vào cảnh giới Niết Bàn không hề trở ngại, bỏ nghiệp hiện tại, nhập vào cảnh Niết Bàn.
Cho nên nói:
Đạt được Niết Bàn.
Người trí giữ giới cấm
Chuyên trau dồi trí tuệ
Tỳ Kheo không phiền não
Chứng quả, dứt hết khổ.
Người trí giữ giới cấm: Giới không lay động, khéo an trụ vững chắc, cũng không thể dời đổi, người trí dứt bỏ ngu tối, không bao giờ sống trong sự ngu si mê hoặc, như vị tướng hùng mạnh than mặc áo giáp nhiều lớp, nhưng nếu trong tay không có kiếm thì không thể chiến thắng được cường địch.
Còn nếu có kiếm nhưng không có áo giáp nhiều lớp thì cũng không thể hàng phục được cường địch. Còn nếu vị tướng hùng mạnh thân mặc áo giáp nhiều lớp, tay cầm kiếm bén, trước sau được che bọc thì chiến đấu với giặc chắc chắn thắng lợi, không còn ngờ vực. Người tu hành cũng lại như thế, thân mặc áo giáp giới luật, nhưng tâm không có kiếm bén trí tuệ thì không thể giết chết được tên đầu sỏ kết sử.
Dù cho có thân trí tuệ nhưng không có áo giáp giới thì cũng không dứt trừ được kết sử kia, như vị tướng mạnh kia thân mặc áo giáp giới, tâm cầm kiếm tuệ, chiến đấu với kết sử bền bỉ từ đầu đến cuối thì chắc chắn có kết quả.
Cho nên nói: Người trí giữ giới cấm.
Chuyên trau dồi trí tuệ: Lấy tuệ luyện tâm, khử hết sạch chất dơ bẩn, như quặng sắt phải được tôi luyện trong lò liên tục nhiều lần thì dù mềm cũng có thể cứng, dù xấu cũng thành tốt, giống như biển cả đêm ngày sôi động, bao nhiêu cặn bã lắng xuống biến thành châu báu. Người tu hành cũng thế, đêm ngày điều khiển tâm không ngừng nghỉ thì chắc chắn chứng quả.
Cho nên nói: Chuyên trau dồi trí tuệ.
Tỳ Kheo không phiền não: Mặc dù mang hình hài được hun đúc bởi đất Trời, nhưng ở trong đó, không bao giờ bị phiền não làm thương tổn.
Vì sao?
Vì Tỳ Kheo giữ gìn năm căn, được năm lực, tâm không lui sụt thì nguyện ước chắc chắn đạt kết quả. Tỳ Kheo là người dứt bỏ các kết sử, hết hẳn không còn sót. Thân mặc Ca Sa, tay ôm bát, tới giờ đến nhà thí chủ với dáng vẻ hổ thẹn, được bố thí thức ăn không màng ngon dở, chỉ mong được vui Niết Bàn, cho nên gọi là Tỳ Kheo.
Vì thế nói rằng: Tỳ Kheo không phiền não.
Chứng quả, dứt hết khổ: Nhổ sạch cội gốc khổ, dứt không còn sót. Không còn phải trải qua các khổ nạn. Do đó khổ dứt, công đức phước đức ngày càng phát sinh.
Cho nên nói:
Chứng quả, dứt hết khổ.
Dùng giới hàng tâm
Giữ ý chánh định
Trong tu chỉ quán
Không quên chánh trí.
Dùng giới hàng tâm: Thường giữ tâm không để mất chánh niệm, cũng không chơi đùa buông lung.
Cho nên nói: Dùng giới hàng tâm.
Giữ ý chánh định: Định có ba loại: Thiện, bất thiện, vô ký.
Người giữ gìn định thiện thì không để cho định bất thiện được dịp thuận tiện làm hại, thường nhớ nghĩ, tư duy: Nay ta được chánh định thì phải tìm xét rốt ráo nguồn cội, vì sao lại để cho định bất thiện tán loạn xen vào.
Cho nên nói: Giữ ý chánh định.
Trong tu chỉ quán: Thường nghĩ giữ tâm, nhớ sự tỉnh sáng, quét sạch hết u tối như ngọn đuốc sáng. Quán sát gốc ái, tìm xét gốc si, ngăn chặn không phát sinh ra.
Cho nên nói: Trong tu chỉ quán.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Thất Bảo
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nhãn Dĩ đoạn
Phật Thuyết Kinh Cửu Phẩm Vãng Sanh A Di đà Tam Ma địa Tập đà Ra Ni
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Tạp - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Ba - Quán Tướng - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Cứ đà Bố Thí Thân
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Mười Năm - Kinh Phương Thuốc Chóng Lớn