Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Một Trăm - Kinh Cảnh Sống Trên đời
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Tư Na, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tiêu Tề Cầu Na Tỳ Địa
PHẬT THUYẾT KINH BÁCH DỤ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Tư Na, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tiêu Tề Cầu Na Tỳ Địa
KINH THỨ MỘT TRĂM
KINH CẢNH SỐNG TRÊN ĐỜI
Khi Đức Phật ở trong Vườn Trúc thành La Duyệt Kỳ, một hôm Ngài cùng các đệ tử nhận lời thỉnh của thiện tín vào thành thuyết pháp. Thuyết pháp xong, chiều về giữa đường Ngài gặp một người chăn trâu, đương đuổi đàn trâu lớn vào thành.
Ngài thấy con nào con ấy no béo, lồng lộn đâm húc nhau, Ngài liền đọc bài kệ:
Lăm tăm roi nhắc trên tay,
Chăn nuôi mong để có ngày thịt, sơi.
Già đi, chết lại chuyển dời,
Chiếc thân chăm chút đợi thời ra đi.
Góp gom tài sản chi ly,
Dù ai, ai mặc, suy vi chẳng từ.
Ngày, đêm sống tưởng lặng tờ,
Mệnh căn tự hủy từng giờ không hay.
Cuộc đời trong giấc ngủ say,
Ao sâu giọt nước, ẩm đầy bao lâu?
Đức Phật về đến Vườn Trúc, rửa chân rồi ngồi vào tòa cũ.
Tôn giả A Nan tới trước cúi đầu làm lễ bạch: Lạy Đức Thế Tôn! Vừa rồi, khi Đức Thế Tôn đi đường Ngài có nói bài kệ, con không hiểu ý nghĩa ra sao kính mong Thế Tôn Giáo hóa cho.
Đức Phật bảo: Này ông A nan, ông có trông thấy người chăn trâu đuổi đàn trâu vào thành không?
Tôn giả A Nan bạch: Lạy Đức Thế Tôn! Con có trông thấy.
Đức Phật bảo: Ông A Nan, nhà nuôi trâu ấy, họ có đến nghìn con, ngày ngày họ sai người ra ngoài thành tìm cỏ non, nước tốt đem về nuôi cho béo, hàng ngày họ chọn những con béo đem giết thịt. Tính ra những trâu họ đã giết đến quá nửa rồi. Thế mà những con trâu còn lại không hề biết gì mới lồng lộn, đâm húc nhau và gào rống như thế.
Ta thương nó không biết gì, nên ta nói bài kệ ấy.
Đức Phật bảo: Ông A Nan, cứ gì đàn trâu ấy, người đời cũng thế.
Người đời chỉ chấp chặt cái ta, không biết đến lẽ vô thường, ham đắm ngũ dục, nuôi nấng thân mình, vui lòng thỏa ý lại tàn hại lẫn nhau. Khi vô thường oán kết từ xưa vụt đến, mờ mịt không biết gì, thời có khác chi đàn trâu kia vậy.
Trong giảng đường khi ấy có hai trăm vị Tỳ Kheo còn vương tính tham lam sự cúng dàng nghe Đức Phật nói pháp ấy tự thẹn, cố gắng sửa chữa, được đầy đủ thần thông và được quả vị A La Hán. Mọi người trong giảng đường vui, buồn xen lẫn, làm lễ Phật rồi lui.
Tôi tạo Bộ Luận này,
Hòa hợp lời vui cười.
Thêm, bớt lời chính thực,
Quán nghĩa hợp hay không.
Tựa như thuốc độc đắng,
Hòa hợp cùng thạch mật.
Thuốc để phá hoại bệnh,
Luận này cũng như vậy.
Đùa cười trong chánh pháp,
Như thuốc độc dại kia.
Nhưng, chánh pháp của Phật,
Vẳng, định soi sáng đời.
Như uống thuốc thổ ra,
Dùng vị Tô Nhuận Thể.
Nay tôi đem nghĩa ấy,
Tỏ bày lẽ tịch định.
Như thuốc A Già Đà,
Dùng lá cây gói, phong.
Thuốc thoa chỗ độc rồi,
Lá cây vứt bỏ đi.
Đùa cười như lá bọc,
Thực nghĩa nằm ở trong.
Trí giả dùng chính nghĩa,
Đùa cười nên bỏ đi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Một Trăm - Kinh Cảnh Sống Trên đời
Phật Thuyết Kinh Bát Phật Danh Hiệu
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Ba - Phẩm Giáng Thai
Phật Thuyết Kinh Dục Phật Công đức
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Hai - Kinh Pháp Cú - Chương Hai Mươi Bốn - Phẩm Tham ái
Phật Thuyết Kinh Ma Lợi Chi Bồ Tát đà La Ni - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Ba