Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Một - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM MỘT

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN HAI  

Đại Huệ! Cái thuyết ba duyên hợp sanh của ngoại đạo, lập ra phương tiện nhân quả tự tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, tưởng hữu chủng, vô chủng từ xưa đến nay đã thành sự thật, giác tưởng xoay chuyển, thừa kế với nhau, là do lỗi tập khí tự sanh kiến chấp mà thuyết như thế.

Đại Huệ! Phàm phu ngu si, say mê tà tưởng, trí huệ bị ác kiến nuốt mất, đem cái thuyết vô trí lại vọng xưng là nhất thiết trí.

Đại Huệ! Nếu các Sa Môn, Bà La Môn lìa kiến chấp tự tánh, biết trong ngoài tâm hiện như mây nổi, như vòng lửa, như thành Càn Thát Bà, như dương diệm, như bóng Trăng trong nước, như mộng huyễn, những vọng tưởng hư dối từ vô thỉ chẳng lìa tự tâm.

Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết, lìa năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán của vọng tưởng, kiến lập thân của tạng thức, nơi cảnh giới thức có thọ dụng, nhiếp thọ và kẻ nhiếp thọ v.v...

Đối với những việc kể trên đều chẳng tương ưng, chẳng có tất cả cảnh giới ấy, lìa sanh trụ diệt, lìa tự tâm khởi, lìa tùy chỗ nhập mà phân biệt, Bồ Tát này được như thế thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc sanh tử và Niết Bàn bình đẳng, được đại bi phương tiện khéo léo mà chẳng thấy có sự mở mang phương tiện.

Đại Huệ! Nơi tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn, chẳng do nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm chẳng thấy pháp khác, lần lượt nhập chỗ vô tưởng, từ cảnh giới tam muội của địa này đến địa kia.

Phân biệt quán xét, thấu rõ tam giới như huyễn, sẽ chứng đắc như huyễn tam muội, siêu việt tự tâm hiện, trụ nơi bát nhã Ba la mật, lìa bỏ phương tiện, lìa Kim Cang Dụ và Tam Ma Đề, liền vào thân Như Lai, liền vào thần thông biến hóa tự tại, từ bi phương tiện, đầy đủ trang nghiêm.

Vào tất cả Cõi Phật và chỗ ngoại đạo, bình đẳng như như, lìa tâm, ý, ý thức, ấy là sự lần lượt chuyển thân của Bồ Tát, cho đến chứng đắc pháp thân Như Lai, cuối cùng qui về vô sở đắc.

Đại Huệ! Cho nên muốn đắc vào pháp thân Như Lai, phải xa lìa ấm, giới, nhập và nhân duyên làm phương tiện của tâm, duy tâm thẳng quán xét lỗi vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thỉ, sanh, trụ, diệt là vọng tưởng hư dối.

Phật Địa vô sanh, tư duy tam giới chẳng thật có, đến tự giác Thánh trí, tự tâm tự tại, đến chỗ hành vô sở hành, như hạt châu Ma Ni tùy sắc hạt châu tự chẳng có màu sắc, mà tùy màu sắc của người xem hiện ra màu sắc, nghĩa là tùy tâm lượng vi tế của chúng sanh mà biến hóa thân hình, nên chư địa lần lượt được tương tục kiến lập.

Cho nên, này Đại Huệ! Việc tự thành tựu pháp thiện phải siêng tu học.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn nói tâm, ý, ý thức, tướng năm pháp tự tánh là tất cả Chư Phật, Bồ Tát sở hành, cảnh giới sở duyên chẳng phải hòa hợp, hiển bày tất cả pháp do tự tâm hiện, thành tướng chân thật.

Nhất thiết Phật ngữ tâm là Phật thuyết cảnh giới tạng thức của pháp thân, ở nơi trụ xứ của Chư Đại Bồ Tát tại núi Ma La Da trong biển thuộc nước Lăng Già.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát rằng: Do bốn nhân duyên mà nhãn thức chuyển.

Thế nào là bốn?

1. Tự tâm bất giác hiện ra nhiếp thọ.

2. Lỗi tập khí hư ngụy từ vô thỉ.

3. Chấp trước tự tánh của tánh thức.

4. Muốn thấy đủ thứ sắc tướng.

Ấy gọi là bốn thứ nhân duyên từ dòng suối chảy của tạng thức, sanh ra làn sóng của chuyển thức. Như nhãn thức chuyển thì tất cả vi trần, lỗ chân lông của tất cả các căn đều sanh, các cảnh giới khác theo đó sanh khởi cũng như thế.

Ví như gương sáng hiện các sắc tướng, ví như gió lớn thổi nước biển thì gió cảnh giới bên ngoài thổi biển của tâm, nổi làn sóng thức cũng vậy.

Bởi vì tướng sở tác khác hay chẳng khác, do nghiệp duyên hòa hợp sanh tướng, lại chấp trước sâu vào, chẳng thể liễu tri tự tánh của các sắc, nên cái thân năm thức theo đó mà chuyển.

Đại Huệ! Cái thân năm thứ thức kia đều do cái biết của tướng phần đoạn sai biệt mà có, nên biết đó là cái thân của ý thức. Cái thân chuyển kia chẳng tự cho là tướng của ta chuyển, vì tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước mà chuyển, nên mỗi mỗi tướng hư vọng cùng chuyển. Do phần đoạn sai biệt, phân biệt cảnh giới gọi là chuyển.

Như người tu hành vào thiền chánh định, chuyển tập khí vi tế mà chẳng tự biết, lại cho là thức diệt rồi mới nhập thiền định, thật thì thức chẳng diệt mà nhập chánh định. Vì chủng tử tập khí chẳng diệt nên cảnh giới chuyển mà thức chẳng diệt, chẳng vì không nhiếp thọ mà diệt vậy.

Đại Huệ!  Bờ bến cứu cánh của tạng thức vi tế như thế, ngoài Chư Phật và trụ địa Bồ Tát ra, các Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo tu hành sở đắc, dù có sức trí huệ của tam muội, tất cả chẳng thể đo lường liễu tri được.

Ngoài tướng trí huệ khéo léo phân biệt, phán đoán nghĩa cú, thắng tiến vô biên, thiện căn thuần thục, lìa vọng tưởng hư dối của tự tâm hiện, tĩnh tọa trong núi rừng, tu hành trải qua các bậc hạ, trung, thượng.

Được thấy vọng tưởng lưu chú của tự tâm, được vô lượng Quốc Độ Chư Phật quán đảnh, được sức tự tại thần thông tam muội, được biết các thiện tri thức, quyến thuộc Phật Tử, những tâm, ý, ý thức kia, chúng sanh nghiệp ái vô tri vào biển sanh tử, cảnh giới tư tưởng hư vọng ấy v.v... đều do tự tâm sở hiện. Đến đây, các thứ nhân duyên kể trên thảy đều đã siêu thoát.

Cho nên Đại Huệ! Những người tu hành nên gần gũi bậc tri thức tối thắng.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Ví như sóng biển cả,

Là do gió thổi mạnh.

Sóng to vỗ biển rộng,

Chẳng có lúc ngừng nghỉ.

Biển Tạng thức thường trụ,

Gió cảnh giới lay động.

Mỗi mỗi sóng của thức,

Ào ạt mà nổi dậy

Các thứ màu sắc đẹp,

Các thứ đồ ăn ngon,

Các thứ hoa quả tốt,

Ánh sáng của nhật nguyệt,

Hoặc khác hoặc chẳng khác,

Như biển nổi làn sóng.

Bảy thức cũng như thế,

Tâm cảnh hòa hợp sanh.

Như nước biển biến chuyển,

Nổi đủ thứ làn sóng.

Bảy thức cũng như thế,

Tâm cảnh hòa hợp sanh.

Nói chỗ tạng thức kia,

Mỗi mỗi các thức chuyển.

Là do ý thức kia,

Suy nghĩ nghĩa các tướng.

Có tám tướng chẳng hoại,

Vô tướng vốn vô tướng.

Ví như làn sóng biển,

Nước biển chẳng sai biệt.

Thức tâm cũng như thế,

Chẳng thể có khác biệt.

Tâm gọi tích tập nghiệp,

Ý gọi rộng tích tập.

Thức do thức nhận biết,

Hiện cảnh nói có năm.

Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ hỏi Phật:

Những sắc tướng xanh đỏ,

Do các thức sanh khởi.

Nổi pháp như làn sóng,

Nghĩa ấy xin Phật thuyết.

Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:

Những sắc tướng xanh đỏ,

Làn sóng vốn chẳng có.

Đều do tâm tích tập,

Phàm phu nếu khai ngộ,

Nghiệp kia vốn chẳng có,

Do tự tâm nghiếp thọ.

Lìa năng nhiếp, sở nhiếp,

Đồng như làn sóng kia,

Kiến lập thân thọ dụng,

Là hiện thức chúng sanh.

Nơi các nghiệp hiện kia,

Đều như làn sóng nước.

Đại Huệ Bồ Tát lại dùng kệ nói rằng:

Tánh làn sóng biển cả,

Ào ạt vẫn biết được.

Tạng cùng nghiệp cũng vậy,

Tại sao chẳng hiểu biết?

Thế Tôn dùng kệ đáp:

Phàm phu chẳng trí huệ,

Tạng thức như biển cả.

Nghiệp tướng như làn sóng,

Theo đó dụ cho hiểu.

Đại Huệ Bồ Tát lại dùng kệ hỏi:

Mặt trời sáng soi khắp,

Chúng sanh thượng, trung, hạ.

Như Lai soi thế gian,

Khai thị lời chân thật.

Tại sao chia nhiều thừa,

Thuyết pháp nói chẳng thật?

Khi ấy, Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:

Nếu nói lời chân thật,

Tâm họ chẳng chân thật.

Ví như làn sóng biển,

Như bóng gương, mộng huyễn.

Tất cả cùng lúc hiện,

Cảnh giới tâm cũng thế.

Bản thể của tâm cùng khắp không gian,

Thời gian, nên cùng lúc hiện, chẳng có trước sau

Nay cảnh giới chẳng đủ,

Là do nghiệp chuyển sanh,

Thức do thức nhận biết,

Ý do ý cho vậy.

Năm thức tùy cảnh hiện,

Chẳng thứ lớp nhất định.

Ví như thợ vẽ khéo,

Và học trò thợ vẽ.

Bút màu vẽ hình tướng,

Thuyết ta cũng như thế.

Màu sắc vốn vô nghĩa,

Chẳng phải bút hay lụa.

Vì thỏa lòng chúng sanh,

Vẽ đủ thứ hình tướng.

Dùng lơì nói khai thị,

Thật nghĩa lìa văn tự.

Phân biệt tiếp sơ cơ,

Tu hành đến chân thật.

Chỗ chân thật tự ngộ,

Lìa năng giác, sở giác.

Đây vì Phật Tử nói,

Kẻ ngu vọng phân biệt.

Thế gian đều như huyễn,

Dù hiện chẳng chân thật.

Thuyết pháp cũng như thế,

Tùy sự lập phương tiện.

Lương y trị bệnh nhân,

Tùy bệnh mà cho thuốc.

Thuyết pháp chẳng ứng cơ,

Nơi họ thành phi thuyết.

Tùy tâm lượng chúng sanh,

Như Lai ứng cơ thuyết.

Phi cảnh giới vọng tưởng,

Thanh văn chẳng có phần.

Vì thương xót kẻ mê,

Thuyết cảnh giới tự giác.

Lại nữa Đại Huệ! Nếu Đại Bồ Tát muốn biết hiện lượng của tự tâm, nhiếp thọ và kẻ nhiếp thọ đối với cảnh giới vọng tưởng, phải lìa phong tục tập quán thế gian.

Ngày đêm sáu thời thường tự cảnh tỉnh, phương tiện tu hành, phải lìa ngôn luận của người ác kiến và các tướng thừa Thanh Văn, Duyên Giác, thông đạt tướng vọng tưởng của tự tâm hiện.

Lại nữa Đại Huệ! Đại Bồ Tát kiến lập trí huệ, nơi ba tướng của Thánh trí nên siêng tu học.

Thế nào là ba tướng của Thánh trí?

Ấy là tướng vô sở hữu, tướng nhất thiết Chư Phật tự nguyện xứ, tướng cứu cánh Tự Giác Thánh trí. Tu hành được đến đây rồi, phải xả bỏ tướng bệnh của trí huệ tâm, được lên Bồ Tát đệ Bát Địa, ấy là do quá trình tu tập ba tướng kể trên mà sanh khởi.

Đại Huệ! Nói tướng vô sở hữu, là theo cách tu tập những tướng Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo mà sanh khởi. Nói tướng tự nguyện xứ, là nói chỗ Chư Phật xưa tự nguyện tu mà sanh khởi.

Nói tướng cứu cánh tự giác Thánh trí, là đối với tất cả pháp tướng chẳng chấp trước, được tiến hành đến đắc tam muội thân như huyễn của Chư Phật mà sanh khởi.

Đây gọi là ba tướng Thánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng Thánh trí này, thì được đến cảnh giới cứu cánh của tự giác Thánh trí.

Cho nên Đại Huệ! Ba tướng Thánh trí nên siêng tu học.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát biết tâm niệm của chúng Đại Bồ Tát đang nghĩ tên Kinh Thánh Trí Phân Biệt Tự Tánh, nên thừa sức oai thần của tất cả Phật, bạch rằng: Thế Tôn! Cúi xin Phật Thuyết Kinh Thánh Trí Phân Biệt Tự Tánh, y theo Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, phân biệt nghĩa một trăm lẻ tám câu, theo đó thuyết Đại Bồ Tát vào tự tướng và cộng tướng của vọng tưởng tự tánh.

Vì phân biệt thuyết tự tánh vọng tưởng thì được khéo quan sát nhân pháp vô ngã, tẩy sạch vọng tưởng, soi sáng chư địa, siêu việt tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và thiền định của ngoại đạo, biết khắp cảnh giới sở hành bất khả tư nghì của Như Lai, lìa bỏ năm pháp tự tánh.

Dùng pháp thân trí huệ của Chư Phật Như Lai khéo tự trang nghiêm, khởi cảnh giới huyễn, lên Đâu Suất Thiên Cung, Sắc Cứu Cánh Thiên Cung trong tất cả Cõi Phật, cho đến được pháp thân thường trụ của Như Lai. Như Phật Thích Ca từ Đâu Suất Thiên Cung giáng sinh thành Phật.

Phật bảo Đại Huệ: Có một thứ ngoại đạo, khởi vọng tưởng chấp trước đoạn diệt, xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng, cho tất cả pháp cũng như thế.

Ngoài ra còn có ngoại đạo căn cứ theo chỗ vi tế của Đà La phiếu chân lý, vọng chấp các pháp mỗi mỗi sai biệt, sanh kiến chấp ấy, cho là không có sừng thỏ, thì lại nghĩ tưởng phải có sừng trâu.

Đại Huệ! Họ rơi vào nhị kiến hữu và vô, chẳng rõ cảnh giới tâm lượng của tự tâm, vọng tự thêm bớt, kiến lập thân thọ dụng, vọng tưởng có căn cứ số lượng.

Đại Huệ! Tất cả pháp tánh cũng như thế, lìa hữu lìa vô, chẳng nên suy tưởng cho là thật có hay thật không.

Đại Huệ! Nếu lìa hữu, vô mà cho thỏ không sừng là tưởng thật không, cho trâu có sừng là tưởng thật có, đều gọi là tà tưởng.

Đại Huệ! Theo cảnh giới Thánh trí, nên lìa nhị kiến đối đãi.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Người chẳng vọng tưởng thấy tướng vô sanh rồi, theo đó suy nghĩ quán xét, chẳng sanh vọng tưởng, nói là vô ư?

Phật bảo Đại Huệ: Chẳng phải quán xét chẳng sanh vọng tưởng mà nói vô.

Tại sao?

Vì vọng tưởng do chấp thật mà sanh. Như theo chấp thật có và không sừng mà sanh ra vọng tưởng. Nếu chẳng chấp thật thì lìa hai tướng tương đối. Do quán hữu nên nói thỏ không sừng, do quán vô nên nói trâu có sừng.

Đại Huệ! Vì pháp tương đối chẳng phải chánh nhân, nên nói hữu nói vô, cả hai đều chẳng thành. Nói thành là do chấp pháp tương đối mà thành.

Đại Huệ! Lại còn có ngoại đạo chấp trước việc sắc không sanh khởi kiến chấp, chẳng biết thực tế của hư không, nói lìa sắc lìa hư không, sanh khởi kiến chấp ngằn mé của vọng tưởng.

Đại Huệ! Hư không là sắc, thuộc về sắc chủng. Sắc là hư không, do năng trì, sở trì mà kiến lập, phân biệt tánh sắc tánh không.

Đại Huệ! Phải biết tứ đại chủng sanh khởi, tự tướng riêng biệt, chẳng trụ hư không, nhưng không phải chẳng có hư không.

Như thế Đại Huệ! Vì chấp pháp tương đối, quán trâu có sừng nên nói thỏ không sừng. Nếu đem sừng trâu phân tích thành vi trần, lại phân tích vi trần cho đến cực vi thì sát na chẳng có sở trụ.

Họ quán theo như thế nào mà nói là vô ư! Nếu quán vật khác thì pháp cũng như vậy.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát rằng: Nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, sắc tướng hư không, kiến chấp vọng tưởng. Các Đại Bồ Tát nên suy xét vọng tưởng do tự tâm hiện, Bồ Tát vào tất cả Quốc Độ, dùng phương tiện của tự tâm dạy bảo chúng sanh.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Tất cả sắc và tâm,

Sanh khởi từ nơi không.

Thân thọ dụng kiến lập,

Tạng thức hiện chúng sanh.

Tâm, ý và ý thức,

Pháp tự tánh có năm.

Vô ngã có hai thứ,

Do Như Lai rộng thuyết.

Dài, ngắn, và có, không,

Lần lượt sanh lẫn nhau.

Vì không lập nghĩa có.

Vì có lập nghĩa không.

Nếu phân biệt vi trần,

Vọng sắc chẳng thể sanh.

Chỗ an lập tâm lượng,

Không nên có ác kiến

Phi cảnh giới giác tưởng,

Tưởng Thanh Văn cũng thế,

Cảnh giới của tự giác,

Cứu thế phương tiện thuyết.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần