Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý

HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Duy Tịnh, Đời Triệu Tống  

PHẦN SÁU  

Ở nơi niệm mà tùy niệm là tuệ lực. Bình đẳng ương ưng với tất cả pháp là niệm giác phần. Không xuất, không nhập là trạch pháp giác phần. Không có ngã sở là tinh tấn giác phần. Thân tâm khéo an trú là hỷ giác phần.

Bình Đẳng Giác ngộ là khinh an giác phần. Lìa nhị pháp là định giác phần. Xa lìa các kiến là xả giác phần. Trong tất cả phân biệt và vô phân biệt, lìa các biến kế là chánh kiến. Ngộ nhập tất cả âm thanh bình đẳng là chánh tư duy.

Lìa pháp nơi thân tâm là chánh ngữ. Tất cả việc làm đều được tự tại gọi là chánh nghiệp. Không cao, hạ là chánh mạng. Bình đẳng an trú trong thiện hay bất thiện đã hiện bày là chánh cần.

Bình đẳng ngộ nhập tâm nơi chốn duyên là chánh niệm. Tĩnh lặng an trú vào Xa Ma Tha mầu nhiệm là chánh định. Đối với kiến hay phi kiến đều mang nghĩa thanh tịnh, không chỗ sinh là nghĩa vô thường. Nghĩa xưa nay bất sinh là nghĩa khổ. Nghĩa không chỗ hành là nghĩa vô ngã. Nghĩa dừng nghỉ là nghĩa tịch diệt vắng lặng. Khéo điều phục tâm là nghĩa bố thí. An trú tánh trong mát là nghĩa trì giới.

Tùy thuận chúng sinh mà nhận biết tất cả pháp là nghĩa nhẫn nhục. Đối với tất cả pháp có thể khéo léo chọn lựa là nghĩa tinh tấn. Nội tâm ngừng nghỉ là nghĩa thiền định. Hiểu biết như thật các pháp vô tướng là nghĩa thắng tuệ.

Tất cả chúng sinh xưa nay thanh tịnh là nghĩa từ, ngang bằng với hư không là nghĩa bi. Vui với cái không chỗ thủ đắc là nghĩa hỷ. Tất cả việc làm đều được rốt ráo là nghĩa xả. Tất cả các pháp từ đời trước đến nay, ba luân thanh tịnh là nghĩa không. Đời sau thanh tịnh là nghĩa lìa. Hiện tại thanh tịnh là nghĩa vô ngã.

Này Hải Ý! Nếu các Bồ Tát đối với các pháp sâu xa như thế, không khởi không diệt, lìa các văn tự, ngang bằng với hư không. Nơi thuận và nghịch trí đều nhập bình đẳng.

Nếu thường tư duy quán sát việc làm như thế thì Bồ Tát ấy có thể đối với tâm báu nhất thiết trí đã phát ấy, giả như đâm cũng không thủng. Lại nữa, tuy đâm như thế nhưng tâm nhất thiết trí kia không hay biết, tức là ở trong lý tự tại của các pháp, mới có thể hiện chứng.

Này Hải Ý! Ví như nhật nguyệt tự chiếu ở mọi nơi, chiếu sáng khắp bốn châu lớn nhưng Thiên Tử nhật nguyệt kia hoàn toàn không hay biết, cũng chẳng nghĩ: Ta có thể đến khắp mọi nơi, hoặc không đến mà chiếu sáng khắp. Chỉ do sức báo ứng quả phước của tất cả chúng sinh mà được chiếu sáng như thế.

Này Hải Ý! Bồ Tát đầy đủ trí khéo chọn lựa, cũng giống như thế. Tuy ở trong vô lượng Cõi Phật, rộng vì chúng sinh làm lợi ích lớn nhưng Bồ Tát ấy hoàn toàn không hay biết, chưa từng khởi các tưởng tác ý, nhưng việc làm kia tùy theo chỗ thích ứng tự hiện phát.

Lại nữa, Hải Ý! Nếu Bồ Tát đầy đủ trí chọn lựa thì nên ở trong định Ba la mật và tuệ Ba la mật, như lý quán sát kỹ.

Vì sao?

Vì Bồ Tát trụ nơi tâm đẳng dẫn thì không tu quán pháp. Tu quán hạnh Bồ Tát thì không trụ tâm đẳng dẫn. Nếu người nào tu quán hạnh thì người ấy có tuệ.

Do có tuệ nên có thể khéo quán sát.

Quán sát cái gì?

Đó là quán thật tướng của các pháp.

Thế nào là thật tướng các pháp?

Nếu đối với các tướng không có chỗ hành thì đó tức là thật tướng của các pháp.

Thế nào là tướng của các pháp?

Nghĩa là có cái hiện rõ, tức là tướng các pháp. Đây cũng gọi là thật tướng các pháp. Nếu hiểu biết tất cả như thế tức là có thể đạt ngộ vô tướng, vô vô tướng.

Cái gì là tướng?

Cái gì là vô tướng?

Tướng tức là sinh. Vô tướng là diệt. Nếu vô tướng, vô vô tướng tức là không sinh cũng không diệt. Nếu pháp không sinh cũng không diệt, tưc là các pháp tánh xưa nay thường trụ, pháp giới không hoại, chân như bất động, thật tế bất biến.

Pháp tánh như thế, đó chính là hiểu đúng như thật về pháp duyên sinh. Giác ngộ tướng chân thật của các pháp, hiện chứng thật tế chân lý vô nhị, như vậy phải dùng trí hiện lượng mới nhận biết được.

Này Hải Ý! Đó gọi là Đại Bồ Tát đầy đủ trí chọn lựa.

Ngay khi Phật Thế Tôn thuyết giảng pháp nhẫn chịu sự bức bách phá chẳng thể hoại, lãnh chịu sự mài giũa như thế, trong pháp hội này, có mười ức trời, người đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, một vạn sáu ngàn Bồ Tát đều đắc pháp nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:

Nếu Bồ Tát nghe tâm bồ đề

Có thể suốt thông tất cả pháp

Tức trí xuyên suốt tất cả ấy

Ở trong các pháp, không chấp trước.

Lại tuy hiểu rõ pháp sâu xa

Bồ Tát trong đó, không sợ hãi

Và cũng không khởi tâm khiếp nhược

Vị ấy thường được đạo tối thắng.

Các pháp, hoặc nhân hoặc sở duyên

biết rõ như thật pháp duyên sinh

Bậc trí tuệ thuận các pháp sinh

Nhưng thật chẳng chấp vào biên kiến.

Trong các pháp hoặc đoạn hoặc thường

Người trí không sinh sự vướng mắc

Hiểu rõ trong ấy cũng như vậy

Vì vậy thật tế bất tư nghì.

Tự tánh các pháp vốn vô ngã

Trong đó, ngã cũng khong tự tánh

Các pháp không tánh cũng như vậy

Xưa nay không sinh đều vắng lặng.

Các pháp không sinh cũng không khởi

Không, không chỗ nắm, thường thanh tịnh

Xa lìa hý luận cửa vô tướng

Tất cả bình đẳng như hư không.

Vô tâm lại cũng không cầu nguyện

Xa lìa tất cả các tham dục

Hiện quán các sắc trong tự tánh

Giống như bọt nước, biết không thật.

Thọ như bọt nổi tạm sinh, diệt

Tưởng như sóng nắng, do vọng sinh

Hành như cây chuối không bền chắc

Thức như trò huyễn chẳng lâu bền.

Bốn giới hiện có tánh không động

Cùng cõi hư không kia đồng đẳng

Các nhập trong ngoài cũng như vậy

Cảnh cùng sinh ra nhưng thầm lặng.

Nên biết tâm, pháp không ở trong

Cũng chẳng hiện hữu ở bên ngoài

Ý pháp vô ngã cũng như vậy

Trong đó, các thức đều vô trụ.

Tất cả pháp ấy không tác ý

Và cũng xa lìa hẳn tướng ngã

Trong tất cả pháp đều bình đẳng

biết rõ như thật nơi chánh tánh.

Pháp chỉ một vị, không tánh khác

Nhất đạo Nhất thừa đều đồng đẳng

Nếu hiểu rõ trí đạo như thật

Nghĩa này hiển bày nơi thắng nghĩa.

Người trí với nghĩa được ngộ nhập

Quán thanh phi thanh được tỏ ngộ

Tất cả âm thanh trong thế gian

Đời trước, đời sau đều dứt hết.

Hoặc văn, hoặc nghĩa tuy hiểu rõ

Trong ấy biết rõ không hai pháp

Hiểu nghĩa môn bất khả thuyết này

Tức thời hiện chứng tánh chân thật.

Các pháp không sinh là khổ trí

Các pháp bình đẳng là trí

Các pháp nghĩa tận là diệt trí

Các pháp vô vi là đạo trí.

Ở trong thân, thọ, tâm, pháp kia

Như lý tùy quán mỗi một pháp

Vô niệm lại không hành tác ý

Đây gọi là quán bốn niệm xứ.

Quán pháp giới chẳng phải tánh giới

Bình đẳng, rốt cùng cũng bình đẳng

Pháp môn chánh đoạn mà không đoạn

Thì đấy gọi là bốn chánh đoạn.

Với tâm nếu đắc tự tại lớn

Thì đấy gọi là bốn thần túc.

Siêu vượt tất cả tâm chấp trước

Chính đây được gọi là tín căn.

Với tất cả pháp được tịch tĩnh

Thì đấy gọi là tinh tấn căn.

Chánh pháp môn niệm mà vô niệm

Thì đấy được gọi là niệm căn.

Nếu không tác ý, rõ các pháp

Thì đấy được gọi là định căn.

Siêu vượt các pháp cửa hý luận

Thì đấy được gọi là tuệ căn.

Nếu không dấy khởi tin pháp khác

Thì liền đạt được trí chân thật.

Vơi tâm cũng không chỗ tri giác

Đây là tín lực, tinh tấn lực.

Nếu hiểu trí vô sinh vô diệt

Thì đấy được gọi là niệm lực.

Tịch tĩnh nơi tâm, không chốn hành

Đây là thành tựu được định lực.

Chẳng có, chẳng lìa sự phân biệt

Thì đấy được gọi là tuệ lực.

Thật hiểu rõ nghĩa của các pháp

Thì đấy gọi là bảy giác phần.

Nơi pháp bình đẳng không sai khác

Thì đây được gọi là chánh kiến.

Như thật quán chiếu pháp vô nhị

Vô sinh là quán các chánh đạo.

Vô sinh chính là nghĩa vô thường

Vô khởi thì gọi là nghĩa khổ.

Vô hành gọi là nghĩa vô ngã

Dừng nghỉ gọi là nghĩa tịch tĩnh.

Tâm điều phục tức là bố thí,

Tâm tĩnh lặng tức là trì giới,

Tùy thuận vạn pháp là nhẫn nhục,

Quán kỹ chánh tuệ là tinh tấn,

Rốt ráo tĩnh lặng là thiền định,

biết đúng như thật là trí tuệ.

Tâm chúng sinh xưa nay thanh tịnh

biết rõ việc này gọi là từ,

Ngang bằng với hư không là bi,

Vui thích thanh tịnh gọi là hỷ,

Tất cả sở duyên không trụ tâm

Thì đấy được gọi là hành xả.

Lại nếu ba luân được thanh tịnh

Có thể hiểu rõ tất cả pháp

Thông suốt các pháp môn như thế

Mà còn dứt hẳn các kiến chấp

Trong đó có cả định và tuệ

Tức hai pháp này được thông suốt

Vào khắp vô lượng cửa cảnh giới

Thì đấy gọi là trí chánh pháp.

Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bồ Tát Hải Ý: Này Hải Ý! Nếu Bồ Tát được sự thanh tịnh khắp như thế rồi, đối với tất cả chúng sinh khởi ý không hư dối thì dù bị chúng sinh bức hại cũng không sinh phiền bực và chướng ngại, đắc trí biết rõ hoàn toàn, đắc tuệ quyết định. Bồ Tát ấy liền có thể, đối với Tam Ma Địa căn bản tịnh ấn tự thuyết này, an trú trong vô trụ.

Thế nào là an trú Tam Ma Địa căn bản?

Nghĩa là đối với tất cả chúng sinh không chướng ngại nên khởi tâm đại bi. Vì khởi tâm đại bi nên thường được tất cả chúng sinh cung kính, tâm cũng không tự cao, hoặc không được cung kính thì tâm cũng không tự ty. Vì vậy cho nên, pháp không có chỗ sinh khởi, cũng không có tâm ngã mạn.

Do đó mới có thể tùy thuận an trú nơi các pháp, không trụ pháp si, thường sinh pháp trí, khắp cùng đều được trí tuệ dẫn dắt thân nghiệp hoàn hảo, trí tuệ dẫn dắt ngữ nghiệp hoàn hảo, trí tuệ dẫn dắt ý nghiệp hoàn hảo. Nếu các việc làm của thân, ngữ, ý, tất cả đều do trí tuệ dẫn dắt thì Bồ Tát liền có thể chuyển theo trí.

Thế nào là Bồ Tát được trí tuệ dẫn dắt thân nghiệp hoàn hảo?

Nghĩa là, nếu chúng sinh cần thấy sắc thân để có thể hóa độ và điều phục thì Bồ Tát liền hiện tướng oai nghi khiến tâm chúng sinh ấy được điều phục. Bồ Tát tuy hiện tướng như thế nhưng không thấy thật có sự giác ngộ, cũng không phân biệt. Hoặc nếu thân Bồ Tát khởi lầm lỗi, đắm chấp nơi thân, thân khởi tướng kỳ dị, thân đi không thẳng, thân có loạn động, thân sinh so lường.

Nếu như thế thì các tội lỗi của Bồ Tát ấy nhóm tập hiện tiền, như chặt lõi cây Đa La, về sau các pháp không còn sinh lại nữa. Còn nếu Bồ Tát, thân được thanh tịnh thì tất cả tướng tốt đẹp trang nghiêm thân ấy, tay chân mềm mại, đẹp đẽ dễ mến, phước thành sinh thân, các căn không khuyết, thân phần đầy đủ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần