Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Hai - Phẩm Tánh Của Hạnh Lành
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống
PHẬT THUYẾT
KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống
PHẨM HAI
PHẨM TÁNH CỦA HẠNH LÀNH
Đại Bồ Tát tu tập Thánh Hạnh, thực hành những quả lành thuộc đạo bồ đề, gồm có mười pháp. Mười pháp này có thể nhiếp lấy tất cả điều lành.
Những gì là mười?
1. Chi.
2. Dực phò giúp.
3. Tịnh tâm.
4. Hạnh.
5. Hữu.
6. Nhân.
7. Khí tài năng.
8. Địa quả vị.
9. Phương tiện.
10. Trụ.
Chi là gì?
Nghĩa là tánh Bồ Tát. Tánh Bồ Tát là sự mới phát tâm và ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Tại sao vậy?
Đại Bồ Tát phát tâm bồ đề, tâm bồ đề là căn bản của tất cả pháp lành, vì vậy gọi là chi. Do sự phát tâm này làm nhân mà được Vô Thượng bồ đề, thế nên gọi là nhân. Do nhân của sự phát tâm quyết định được vô thượng bồ đề, cho nên gọi là tánh.
Bởi các nhân sơ phát tâm của đại Bồ Tát, được tu bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật và bát nhã Ba la mật.
Vì thực hành sáu độ Ba la mật, tức được trí tuệ trang nghiêm, phước đức trang nghiêm và tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thế nên Bồ Tát phát tâm bồ đề, mệnh danh là Chi.
Đại Bồ Tát tùy sự phát tâm thực hành đầy đủ, được vô thượng bồ đề cho nên gọi là Chi. Đại Bồ Tát, nếu không có tánh bồ đề, dầu phát tâm siêng năng tinh tấn, rốt cuộc chẳng thể được vô thượng bồ đề. Thế nên biết, chẳng phải do riêng siêng năng tinh tấn mà có tánh bồ đề, do đúng như nghĩa của tánh Bồ Tát. Đây gọi là Chi.
Bồ Tát, tuy có Bồ Tát tánh, nhưng nếu không phát tâm siêng năng tinh tấn, không thể mau thành vô thượng Chánh Giác. Có tánh Bồ Tát, phát tâm bồ đề, do siêng tu tinh tấn, có thể mau thành vô thượng bồ đề. Vì lẽ đó tánh của Bồ Tát gọi là chi.
Vả lại, chi cũng gọi là nhân, cũng gọi là nấc, cũng gọi là thêm lớn, cũng gọi là trang nghiêm, cũng gọi là nương tựa, cũng gọi là thứ lớp, cũng gọi tiến hạnh, cũng gọi là nhà ốc. Do nghĩa đó, tánh gọi là chi.
Thế nào là tánh?
Tánh có hai:
Một là bổn tánh.
Hai là khách tánh.
Bổn tánh là ấm, giới, nhập, thứ lớp liên tục, vô thỉ vô chung. Pháp tánh tự nó như vậy, vì thế gọi là bổn tánh. Khách tánh là tất cả pháp lành tụ tập để được tánh Bồ Tát, đó gọi là khách tánh.
Kinh đây lấy hai thứ bổn, khách làm tánh. Hai tánh đây, gọi là chi. Lại nữa, tánh cũng gọi là chủng tử, là ranh vức.
Gồm có hai thứ:
1. Tế.
2. Thô.
Tế là gì?
Không nhân mà được, không nhân được quả, thế gọi là tế.
Thô là gì?
Có nhân mà được. Từ nhân được quả, thế gọi là thô. Đại Bồ Tát được hai thứ tánh bổn, khách là hơn tất cả Thanh Văn, Duyên Giác huống gì các hạng ngoại đạo. Vì lẽ đó Bồ Tát được gọi là hơn.
Vì sao lại hơn?
Do trong sạch vậy.
Trong sạch có hai:
Một là: Sạch sở tri chướng trí chướng.
Hai là: Sạch phiền não chướng kiết chướng.
Thanh Văn, Duyên Giác sạch phiền não chướng chẳng phải sạch sở tri chướng. Đại Bồ Tát sạch cả hai chướng, do đó tánh Bồ Tát được gọi là hơn. Đại Bồ Tát có bốn điều hơn hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo.
Bốn điều hơn là:
1. Căn hơn.
2. Hạnh hơn.
3. Phương tiện hơn.
4. Đắc quả hơn.
Căn hơn: Đại Bồ Tát bản tánh dõng mãnh lanh lợi.
Duyên Giác tánh trung bình, Thanh Văn tánh chậm lụt. Đây gọi là căn hơn.
Hạnh hơn: Thanh Văn, Duyên Giác vì tự độ mình mà tu các pháp lành, Bồ Tát chẳng tự vì mình, chỉ vì chúng sanh mà tu tập pháp lành, đem tâm đại bi thương xót tất cả, ban bố an vui cho khắp chúng sanh, vì thế gọi là hạnh hơn.
Phương tiện hơn: Thanh Văn, Duyên Giác chỉ có thể rõ thấu ấm, giới, nhập mà chẳng rõ suốt mười hai nhân duyên và xứ, chẳng phải xứ. Phương tiện của Bồ Tát có thể khéo biết tất cả pháp, thế gọi là phương tiện hơn.
Quả hơn: Thanh Văn tự được Thanh Văn bồ đề, Duyên Giác tự được Duyên Giác bồ đề, Bồ Tát tự được Bồ Tát bồ đề. Tánh Bồ Tát có sáu ấn, do sáu ấn này mà tất cả chúng sanh được hay biết đó là Bồ Tát.
Sáu thứ ấn là gì?
Tức bố thí Ba la mật cho đến bát nhã Ba la mật.
Do nghĩa gì bố thí độ gọi là tánh ấn của Bồ Tát?
Bản tánh Đại Bồ Tát có thể được tâm thí xả như vậy: Đối với các thứ tiền của, dầu nhiều hay ít, tâm Bồ Tát không tham đắm, muốn đem cấp giúp cho người. Khi cấp giúp và cấp giúp xong, tùy chỗ thí vật, Bồ Tát tâm sanh vui vẻ. Dù ít dù nhiều, tâm không nghi ngờ hối tiếc, thí vật chút ít cũng không e thẹn.
Nếu không tiền của, cũng thường khen ngợi về sự bố thí. Thấy người bỏn sẻn, có thể đả phá tâm bỏn sẻn nọ, gặp người làm việc bố thí, tâm sanh phấn khởi, vui mừng như gặp cha mẹ. Thấy người đến xin lấy làm hân hạnh.
Nếu không tiền của cung ứng, bèn dùng sức khỏe trợ giúp cho bậc già nua, cha mẹ, Sư Tăng. Ứng đối thì dùng lời nói vui vẻ, lời nói mềm mỏng, lời nói đúng cách, lời nói chân thành lời nói ngay thẳng, để đối trị với lời nói hư vọng, lời nói đôi chiều, lời nói hung hiểm lời nói vô nghĩa của chúng sanh.
Hoặc có người hỏi, còn chẳng nói đến điều hay điều dở của người, huống gì không hỏi mà lại tự nói. Nếu có những người lo sợ các nạn nước, lửa, vua quan, thú dữ, giặc cướp, có thể vì họ cứu nguy giải ách.
Biết ơn, nhớ ơn của người, thường nghĩ báo đáp. Nhận vật người khác gởi gấm giao phó, chẳng làm kẻ ấy nghi ngờ, nếu là vật quý tâm không tham đắm. Vật của mình có, tâm không lẫn tiếc. Thường sắm áo mặc thức ăn cấp giúp cho người.
Luôn luôn chế ngự lòng tham đắm sắc dục, sự đam mê rượu chè, chế ngự sự ưa thích chơi giỡn hay sự vui thích đờn ca xướng hát, và tu tập tánh biết hổ thẹn, dầu được vật quý giá, cũng chẳng sanh ham vui. Đây gọi là tánh ấn của Bồ Tát thuộc bố thí độ.
Thế nào là tánh ấn của Bồ Tát thuộc trì giới độ?
Thân, miệng, ý của Đại Bồ Tát tánh tự mềm mỏng trong sạch, Bồ Tát chẳng khởi tâm hung dữ, chẳng khởi tâm giận hại. Nếu vì khách trần phiền não mà gây các tội lỗi, tạo rồi tâm rất ân hận, tâm rất hổ thẹn phát lộ sám hối. Đối với chúng sanh, khởi lòng thương xót, tưởng như con một.
Trọn đời chẳng dùng tay chân gậy gộc, đá gạch để đánh đập mọi loài, luôn luôn tìm kiếm bậc chân thiện tri thức, chí thường ưa thích cúng dường cha mẹ.
Sư Trưởng và các vị tôn túc kỳ cựu, phá bỏ tánh tình kiêu xa ngã mạn, hỏi han chào đón trước người, biết ơn, nhớ ơn, nếu ai đến hỏi xin. Bồ Tát từ tốn an ủi dẫn dụ chẳng dùng những trò huyễn thuật dối gạt chúng sanh, trọn chẳng nuôi sống bản thân bằng những điều trái phép, thường ưa tu tập tất cả công đức, dạy bảo chúng sanh rộng tu sự nghiệp phước đức.
Thấy các chúng sanh chịu các sự khổ, bị đánh, bị trói, bị giam, bị cầm, bị nóng lạnh đói khát, đến nỗi mất mạng. Xem những cảnh ấy, Bồ Tát đau đớn không khác chính mình chịu khổ.
Bảo vệ giới luật Phật chế, dầu một giới khinh nhỏ nhặt cũng không có ý hủy phạm, huống gì những điều giới trọng. Luôn luôn dùng mười nghiệp lành dạy dỗ mọi người, chẳng ưa xem nghe những kẻ đấu tranh mắng nhiếc. Những gì thuộc về ba nghiệp thân, miệng, ý của Bồ Tát là thường vì chúng sanh, trọn chẳng vì mình mà làm.
Nếu như có người gồm đủ giới đức, nhẫn nhục, trí tuệ, Bồ Tát ưa thích cùng họ làm việc, được lòng hòa dịu, không lòng oán hận hay lòng bất nhẫn. Tâm của Bồ Tát luôn luôn kính trọng những giới Phật chế, không hề dối trá chúng sanh, không nói đôi chiều, không nói lời vô nghĩa.
Dầu không người hỏi vẫn cứ ca tụng điều tốt của người, huống có kẻ hỏi mà không tán dương. Nói chung là luôn luôn tôn trọng sùng kính sự nói năng đúng đắn chân thật. Đây gọi là tánh ấn của Bồ Tát thuộc trì giới độ.
Thế nào là Tánh ấn của Bồ Tát thuộc nhẫn nhục độ?
Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh, nếu có ai đến đánh đập thân mình, ngay đó chẳng đem điều ác trả đũa.
Vì sao thế?
Bởi thân ta đây chẳng phải là thân chân thật. Nếu là thân chân thật làm sao có thể đánh. Thân máu thịt này là thân hòa hợp, là thân nhơ nhớp. Trong thân hòa hợp này, phần ít thấy có đánh, phần nhiều không chút tổn hại.
Cái nhiều đã không tổn hại thì sao lại không vui?
Kẻ giận ta là giận nơi phần ít, cái nhiều không giận.
Nếu cái đánh hòa hợp, đánh cái nhận hòa hợp, vậy thì ai đánh, ai nhận?
Ví như hai vật chạm nhau khua tiếng. Nếu ta nổi giận là tự giận lấy mình.
Tại sao vậy?
Do vì nghiệp duyên mà có thân này, bởi có thân này nên chịu khổ độc này, cũng như do có mục tiêu, tên mới cắm vào. Nếu ta tăng thêm lòng giận, tức chẳng thể có quan niệm oan thân lành dữ là điều bình đẳng. Nếu chẳng thể quan sát sự bình đẳng giữa thiện và ác, quyết định sẽ đọa ba đường ác.
Vì lẽ đó, nếu ai đánh mắng, đối với kẻ kia, ta chẳng nên nổi lòng sân hận. Quán được như vậy, gọi là tánh ấn của Bồ Tát thuộc nhẫn nhục độ.
Lại nữa, nếu gặp người đến đánh mắng, đối với kẻ đó, nên sanh ý tưởng họ như con một của ta, lòng không oán hận. Đây gọi là tánh ấn của Bồ Tát thuộc nhẫn nhục độ.
Thế nào là Tánh ấn của Bồ Tát thuộc tinh tấn độ?
Đại Bồ Tát siêng tu tinh tấn, hừng đông thức dậy, về khuya mới đi nghỉ, chẳng ưa nằm dài ngủ thẳng, chẳng màng lạnh nóng, đói khát, lo mừng. Phàm tạo tác những sự nghiệp thế gian hay sự nghiệp xuất thế, nhất quyết phải làm, cho đến lúc hoàn tất, chẳng chịu bỏ phế nửa chừng. Sự việc dầu chưa kết quả cũng không hối đổi.
Dầu được người cúng dường cung kính, việc tu của mình cũng không nghĩ, không thôi. Với tự bản thân chẳng khởi tâm xem thường, cho rằng mình chẳng thể được vô thượng bồ đề. Tuy gặp những chuyện khó làm ở đời, trọn không dần dà, thoái thất. Đây gọi là Tánh ấn của Bồ Tát thuộc tinh tấn độ.
Thế nào gọi là Tánh ấn của Bồ Tát thuộc thiền định độ?
Đại Bồ Tát dốc lòng ưa thích quán sát nghĩa thật các pháp. Thích ở chỗ vắng lặng rảnh rang, hoặc chỗ không người lai vãng. Thích lìa kẻ ác để nuôi lớn pháp lành, gặp người vui ưa vắng lặng liền sanh hoan hỷ cung kính.
Tuy có phiền não, tính chất cũng nhẹ mỏng, bao nhiêu tâm lành trọn không bị giác quán ác làm cho hư hỏng, tu tập lòng từ, xem kẻ oan gia không khác đích tử.
Hoặc gặp chúng sanh chịu sự khổ lớn, sanh lòng bi mẫn, tùy theo sức mình ra tay dứt trừ, mong các chúng sanh đều được an tồn, giả sử thân bị đau khổ chẳng sanh lo buồn, rủi mất thân mạng hay mất tiền của.
Bị trói, bị nhốt, bị đánh bị đuổi vẫn tự an ủi không sanh lo khổ, để phải đánh mất chánh niệm, chuyên tâm nghe pháp, biên chép thọ trì, đọc tụng giải nói. Nếu người khác quên mất, có thể vì họ chỉ dạy v.v…
Do nhân duyên sự dốc lòng trên đây, trong những đời sau không quên pháp giới. Đây gọi là tánh ấn của Bồ Tát thuộc thiền định độ.
Thế nào là tánh ấn của Bồ Tát thuộc trí tuệ độ?
Đại Bồ Tát biết rõ hết thảy những việc thế gian, biết các phương thuật cũng như biết rành lời lẽ nói năng của các chúng sanh. Tuy biết việc ấy nhưng tâm không mê lầm phóng túng, chẳng bị ngoại đạo lừa dối mê hoặc, chẳng theo nghĩa lý các luận thuyết tà kiến. Đây là tánh ấn của Bồ Tát thuộc trí tuệ độ.
Nay Như Lai nói sơ lược về tướng ấn thô của Bồ Tát, còn Tướng ấn tế về sau là chỗ biết của các Đức Phật. Tánh của Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu đầy đủ các công đức chân thật, đầy đủ tịnh pháp, cho nên gọi là trên hết, gọi là chẳng động, cũng gọi là ấn Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Đại Bồ Tát, nếu không xem thấy tai họa của các điều ác, tức chẳng được tu tất cả pháp lành. Khi Bồ Tát tu pháp lành bậc thượng, nếu do nhân duyên khách trần phiền não, làm cho sa đọa vào ba đường ác, vẫn hơn những chúng sanh trong các đường ấy.
Vì sao vậy?
Vì có tánh Bồ Tát. Nếu do nhân duyên khách trần phiền não đọa vào đường ác, có thể nhanh chóng phá hoại ác báo và mau được ra khỏi, như người chẳng ra cũng không đồng với những kẻ chịu khổ nặng nề trong chốn ác đạo.
Khi Bồ Tát chịu khổ, đối với chúng sanh vẫn còn sanh tâm đại bi, do nhân duyên của tánh mà được bi tâm, thế nên Bồ Tát hơn tất cả chúng sanh trong ba ác đạo. Đại Bồ Tát do nhân duyên bốn thứ phiền não làm cho hư hỏng pháp trong sạch.
Những gì là bốn?
Một là luôn luôn đặt nặng tài lợi.
Hai là, do hai kiết sử giận, si mà gần gũi bạc ác.
Ba là, ở chỗ tướng soái, giặc cướp, Vua chúa, oán cừu, vì sự sợ hãi mà đánh mất thiện tâm, khởi các phiền não.
Bốn là, vì thân mạng mà tạo các điều dữ.
Tuy có tánh Bồ Tát nhưng do bốn điều này, rốt cuộc chẳng chứng vô thượng bồ đề. Lại có bốn việc, tuy có tánh Đại Bồ Tát, nhưng chẳng chứng vô thượng bồ đề.
Những gì là bốn?
Một là, không gặp thiện tri thức Chư Phật, Bồ Tát nói những nghĩa lý không sai, không lộn.
Hai là, tuy gặp thiện hữu tri thức Chư Phật Bồ Tát giải nói nhưng hiểu nghĩa lầm lộn.
Ba là, tuy gặp thiện hữu tri thức Chư Phật Bồ Tát tùy thuận giải nghĩa, nhưng chẳng luôn luôn giữ giới Bồ Tát.
Bốn là, tuy gặp thiện hữu Phật và Bồ Tát tùy thuận giải nghĩa, vị này cũng học giới Bồ Tát song căn lành chưa thành thục, chưa đủ để trang nghiêm đạo vô thượng bồ đề.
Bồ Tát tuy có Bồ Tát tánh nếu không đầy đủ bốn việc như vậy, trọn không thể chứng đạo vô thượng bồ đề. Ngược lại, tuy đầy đủ bốn việc như trên, nhưng nếu không có tánh Bồ Tát mà có thể chứng vô thượng bồ đề điều ấy cũng phi lý.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh đệ Nhất Nghĩa Không
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Tám - Phẩm Ananda - Phần Sáu - Hiện Hữu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Bảy - Phẩm Trì Giới Ba La Mật đa - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Tám Mươi Sáu
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bên Bờ Sông