Phật Thuyết Kinh Bổn Sư - Phẩm Hai - Phẩm Pháp Hai - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH BỔN SỰ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Huyền Trang, Đời Đường  

PHẨM HAI

PHẨM PHÁP HAI  

PHẦN BA  

Ta nghe từ Đức Thế Tôn như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo giảm thiểu sự ngủ nghỉ hay nhớ nghĩ chân chánh thì tâm thường an trụ nơi cảnh an tịnh. Từ nơi thiện pháp hay xem pháp lành mà tu tập chánh niệm.

Như thế đó các Tỳ Kheo! Giảm thiểu ngủ nghỉ, nhớ nghĩ chân chánh, tâm thường an lạc nơi cảnh giới thanh tịnh. Từ nơi thiện pháp thấy nghe pháp lành mà tu tập chân chánh. Ở nơi hai quả tùy chứng một quả, nghĩa là hiện pháp hoặc chứng Hữu Dư Y Niết Bàn, hoặc quả chẳng hoàn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Giác ngộ hay nghe pháp

Tu hành đắc thắng quả

Chìm đắm nơi ngủ nghỉ

Chẳng có không gì cả

Kẻ giảm thiểu ngủ nghỉ

Đủ chánh niệm chánh tri

Tâm này thường yên ổn

Thường ở yên thanh tịnh

Từ nơi pháp lành ấy

Biết thời hay tu tập

Có cứu cánh siêu việt

Sanh lão bệnh tử khổ

Cho nên phải siêng tu

Giảm thiểu việc ngủ nghỉ

Thường hay quán tịch tĩnh

Được hai quả chẳng nghi

Hoặc đoạn sau kết quả

Chứng được quả chẳng hoàn

Hoặc đoạn phần bên trên

Độ sanh lão bệnh tử.

Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo ở nơi thanh nhàn thường ở chỗ yên chuyên tu thiền định, chẳng rời Tĩnh lự, thành tựu minh tịnh Tỳ Bát Xá Na quán sát, giữ gìn tự tâm làm cho chẳng toán loạn, nương nơi thiện pháp tu tập chẳng nhiễm.

Như thế các Tỳ Kheo! Nơi hai quả ấy ta nói nhất định có thể chứng một quả. Nghĩa là pháp hiện tại, hoặc chứng quả Hữu Dư Y Niết Bàn hoặc quả Bất Hoàn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Vui không, sống ở yên

Đủ chánh niệm chánh tri

Lạc an trụ tâm này

Lìa hư vọng phân biệt

Hay phòng hộ tự tâm

Xa rời màn vô minh

Và các dục phiền não

Chẳng ưu hận, về chân

Tâm này hay yên tịnh

Đầy chánh niệm Tĩnh lự

Chẳng chấp có, giải thoát

Hay tận các việc tham

Thường vui chẳng buông lung

Thấy buông lung hay sợ

Những thấy hay xa lìa

Sớm chứng được Niết Bàn.

Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo chẳng xấu chẳng thẹn, người kia quyết định chẳng thể thông qua, chẳng thể hiểu biết, chẳng chứng quả vị, chẳng đến Niết Bàn, cũng chẳng thể chứng được vô thượng an lạc.

Nếu có Tỳ Kheo có tàm có quý, kẻ ấy nhất định có thể thông qua, có thể hiểu biết, có thể chứng quả vị,có thể chứng Niết Bàn, cũng có thể chứng cứu cánh vô thượng an lạc.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Kẻ chẳng xấu chẳng thẹn

Lười biếng chẳng siêng năng

Nhiều hôn trầm ngủ nghỉ

Điểm cuối đến còn xa

Có xấu có hổ thẹn

Thường chẳng hay buông lung

Vui yên nơi thiền định

Đến Niết Bàn chẳng động

Kẻ kia dứt ràng buộc

Cùng sanh già bệnh chết

Sớm chứng quả giải thoát

Được vô lượng an lạc.

Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Phàm là kẻ xuất gia, lược nói hai loại, nên làm những việc nếu có thể làm đúng, sẽ được những gì chưa được, sẽ gặp những gì chưa gặp, sẽ chứng những gì chưa chứng, sẽ tiêu sầu thán, có thể diệt trừ lo buồn, có thể tiếp xúc với chân lý, có thể được Cam Lồ, có thể chứng Niết Bàn.

Sao gọi là hai?

Một là Tĩnh lự.

Hai là hay nghe.

Sao gọi là Tĩnh lự?

Nghĩa là các Tỳ Kheo xa rời các ham muốn xấu, chẳng phải là pháp lành, có sai có quấy, ly sanh hỷ lạc, sống ở đầy đủ. Đây là sự Tĩnh lự căn bản. Sự sai quấy dừng lại, bên trong sẽ được vui. Nếu chẳng dừng sự sai quấy thì không sanh được hỷ lạc, sống yên ở đủ.

Thứ hai, Tĩnh lự là sự lìa sống vui, bỏ chánh niệm và chánh tri, thân thọ niềm vui, vì chúng mà nói, có xả có niệm, an trụ khoái lạc, đầy đủ sống yên.

Thứ ba, Tĩnh lự là đoạn khổ đoạn vui, trước diệt lo, vui, chẳng khổ chẳng vui, bỏ niệm, thanh tịnh đầy đủ sống yên.

Thứ bốn, Tĩnh lự sao gọi là hay nghe?

Nghĩa là các Tỳ Kheo nương nơi Phật nói, đầu, giữa, sau nghe hiểu và lý giải văn nghĩa rõ ràng, thuần đầy pháp phạm hạnh thanh tịnh.

Cho nên hợp với khế Kinh để tụng đọc như Già Đà, Tự Thuyết, Bổn Sự, Bổn Sanh cho đến Phương Quảng, Vị Tằng Hữu... nương nơi đó mà thọ trì đọc tụng nghe tập làm cho thông lợi, tuyên dương giải thích. Nên có tên là hay nghe.

Như thế đó các người xuất gia lược nói hai loại là vậy! Nên làm những việc nếu có thể đúng đắn sẽ được những gì chưa được, gặp những gì chưa gặp, chứng những gì chưa chứng, có thể tiêu sầu thán, có thể diệt ưu khổ, có thể gặp chân lý như thật, có thể được Cam Lồ, có thể chứng Niết Bàn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Xuất gia có hai loại

Muốn làm việc chân chánh

Nên ở yên hay nghe

Xa sẽ chứng Niết Bàn

Yên lặng huệ là gốc

Huệ có từ yên lặng

Có ở yên có huệ

Xa sẽ chứng Niết Bàn

Trăm ngàn Tăng câm ngọng

Chẳng huệ không Tĩnh lự

Nói Kinh trăm ngàn năm

Chẳng chứng một Niết Bàn

Khuyên tu người trí huệ

Vui nghe pháp giải thoát

Nhớ nghĩ tất lợi lạc

Hay sớm chứng Niết Bàn.

Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này. Các Tỳ Kheo nên biết. Sự tìm cầu có hai chẳng có thứ ba.

Sao gọi là hai?

Nghĩa là tìm cầu Thánh và chẳng tìm cầu Thánh.

Sao lại có tên gọi là chẳng tìm cầu Thánh?

Nghĩa là có một loại pháp về già tìm cầu Pháp Già. Đã có bệnh rồi, tìm cầu pháp bệnh, đã có pháp chết rồi tìm cầu pháp chết, đã có pháp sầu rồi, tìm cầu pháp sầu, đã có pháp nhiễm rồi, đi tìm cầu pháp nhiễm.

Sao gọi là Pháp Già?

Nghĩa là vợ con, nô tỳ, kẻ ở, voi ngựa bò dê gà heo nhà cửa, vàng bạc tài sản v.v... đều có tên là Pháp Già. Đó là pháp lão vì lẽ những loại hữu tình này có căn bản sanh tử khổ não.

Kẻ phàm phu sanh ra nương vào đó mà tồn tại, bị nhiễm ái đắm trước. Do lý do này mà chẳng thể giải thoát sanh tử nên có tên là Pháp Già.

Sao gọi là pháp bệnh?

Nghĩa là vợ con, nô tỳ, kẻ ở nói rộng cho đến nhiều loại do chẳng thể giải thoát sanh tử. Nên có tên là bệnh pháp.

Sao gọi là tử pháp?

Nghĩa là vợ con, nô tỳ, kẻ ở rộng ra cho đến nhiều loại do chẳng thể giải thoát sanh tử nên có tên là pháp chết.

Sao gọi là pháp sầu?

Nghĩa là vợ con, nô tỳ, kẻ ở cho đến nói rộng ra các loại, do chẳng thể giải thoát sanh tử nên có tên gọi là pháp sầu.

Sao gọi là nhiễm pháp?

Nghĩa là vợ con, nô tỳ, kẻ ở, voi ngựa trâu dê, gà heo, nhà cửa, tiền bạc tài sản có tên là nhiễm pháp. Đó gọi là pháp nhiễm. Có nghĩa là chúng hữu tình có căn bản sanh tử khổ.

Người ngu sanh ra nương vào nơi này bị nhiễm ái đắm trước, do vậy mà chẳng thể giải thoát sanh tử được. Nên có tên là nhiễm pháp.

Nếu nương nơi này mà tìm cầu ái lạc thì phải biết rằng chẳng tìm cầu Thánh Hạnh. Những tìm cầu như thế cuối cùng Đức Như Lai chẳng xưng dương tán thán. Chỉ thường hay khuyên nên biết mà xa rời.

Thế nào là nhân duyên chẳng tìm cầu Thánh Hạnh?

Mà cuối cùng Như Lai chẳng xưng dương tán thán?

mà chỉ khuyên răn thôi để làm cho xa lìa?

Do việc tìm cầu này là không phải pháp của Hiền Thánh, chẳng thể ra khỏi, không thể vui Niết Bàn, chẳng trói buộc, chẳng xa lìa, chẳng mất, chẳng yên, chẳng có trí tuệ, chẳng thành Đẳng Giác, chẳng chứng Niết Bàn. 

Do vậy sự tìm cầu này có thể dẫn tất cả chúng sanh vào sanh già bệnh chết sầu than lo buồn khổ não. Như vậy cho nên đây gọi là phi Thánh tìm cầu. Như Lai cuối cùng rồi chẳng xưng dương tán thán. Chỉ hay khuyên bảo cho biết và làm cho xa rời.

Thế nào gọi là tìm cầu Thánh Hạnh?

Nghĩa là có một loại về Pháp Già có thể tự biết là ta đã già, phải tự biết như thật là mình đã quá già, tìm cầu cứu cánh, không già thì không có vô thượng an lạc Niết Bàn.

Cho đến pháp bệnh, có thể tự biết mình đã có bệnh, hay biết bệnh như thật, tìm cầu cứu cánh, không bệnh thì không chứng vô thượng Niết Bàn.

Cho đến pháp chết cũng hay tự biết, mình sẽ phải chết, hay biết như thật về pháp chết, tìm cầu cứu cánh, chẳng chết thì chẳng có vô thượng an lạc Niết Bàn.

Cho đến pháp sầu, cũng nên tự biết, ta có pháp sầu, có thể biết pháp sầu như thật, tìm cầu cứu cánh, không sầu thì không chứng vô thượng an lạc Niết Bàn.

Cho đến pháp nhiễm cũng hay tự biết ta có nhiễm pháp, hay biết nhiễm pháp như thật, tìm cầu cứu cánh, không nhiễm chẳng có vô thượng an lạc Niết Bàn. Như thế ấy có tên là tìm cầu Thánh Hạnh. Như vậy tìm cầu, tất cả các Đức Như Lai xưng dương tán thán.

Thế nào là nhân duyên tìm cầu Thánh Hạnh?

Mà tất cả Như Lai đều xưng dương tán thán?

Do sự tìm cầu này mà gọi là pháp của Hiền Thánh. Có thể vĩnh viễn ra khỏi, có thể vui thú Niết Bàn, có thể chán có thể lìa, có thể diệt có thể tịnh, có thể được trí tuệ, có thể thành đẳng Chánh Giác, có thể chứng được Niết Bàn.

Do sự tìm cầu này có thể siêu tất cả sanh lão bệnh tử sầu than, lo khổ về sanh và không phiền não cho nên như thế là tìm cầu Thánh Hạnh.

Tất cả các Đức Như Lai hay xưng dương tán thán. Cho nên có tên là tìm cầu. Có hai loại chẳng có ba, cho nên các ngươi phải biết như vậy.

Ta nay xa rời như thế nào sự chẳng tìm cầu nơi Thánh Hạnh?

Phải như thế mà tìm cầu nơi Thánh Hạnh.

Này các Tỳ Kheo! Phải nên hiểu như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần