Phật Thuyết Kinh Các Pháp Vốn Không Kinh Chư Pháp Bản Vô - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH CÁC PHÁP VỐN KHÔNG
KINH CHƯ PHÁP BẢN VÔ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẦN BA
Khi ấy, Đồng chân Mạn Thù Thi Lợi lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao phải thấy bốn niệm xứ?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Vào đời vị lai có một vị Tỳ Kheo. Vị Tỳ Kheo này, tùy thuận xem xét thân ngay trong thân không sạch, đó gọi là niệm xứ. Tùy thuận quán thọ ngay trong thọ sinh diệt, đó gọi là niệm xứ. Thấy tâm chính là pháp sinh diệt, tùy thuận quán tâm ở ngay trong tâm, đó gọi là niệm xứ.
Vị Tỳ Kheo ấy nói như vậy, có nghĩa là: Nếu có viên tưởng, thì tưởng ấy chẳng phải có. Nếu có pháp tưởng thì tưởng ấy cũng chẳng phải có, như vậy, tùy thuận xem xét pháp ngay trong pháp, gọi đó là niệm xứ.
Nghe Phật nói vậy, Đồng chân Mạn Thù Thi Lợi lại bạch: Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn niệm xứ lại phải huân đúc tu hành?
Phật đáp: Không cần phải vậy.
Mạn Thù Thi Lợi! Đối với những điều Như Lai đã nói, ý rất đặc biệt, ông khó thể biết được.
Mạn Thù Thi Lợi bạch: Bạch Đại Đức Thế Tôn! Chỉ nên vì huân tu niệm xứ mà nói.
Phật nói: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy thân mình bình đẳng như hư không, thì tùy thuận mà quán thân niệm xứ, ngay trong thân đấy.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không cảm nhận được trong ngoài, hai bên, thì tùy thuận mà quán thọ niệm xứ, ngay trong sự cảm nhận đó.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu biết tâm chỉ có tên và lượng, thì tùy thuận mà quán tâm niệm xứ, ngay trong tâm ấy.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không đạt được pháp tốt và pháp xấu, thì tùy thuận mà quán pháp niệm xứ, ngay trong pháp ấy.
Mạn thù thilợi! Như vậy, cho nên phải thấy bốn niệm xứ.
Mạn Thù Thi Lợi lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tại sao nên thấy tám phần đạo của Bậc Thánh?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp đều bình đẳng không hai cũng không chia làm hai. Đấy là chánh kiến.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp không phân biệt, không phân biệt từng thứ, không phân biệt khắp nơi. Và vì không có gì để thấy, nên đấy gọi là phân biệt chân chánh.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp không thể nói năng, vì nói năng bình đẳng khéo un đúc sự tu tập, nên đấy gọi là chánh ngữ lời nói chân chánh.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp là không tạo tác, không người tạo ra, vì không có người tạo ra, nên đấy gọi là chánh nghiệp.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu đối với các pháp không nhóm họp, không rời nhau, sinh sống một cách chân chánh, đấy gọi là chánh mạng.
Mạn Thù Thi Lợi! Vì đối với các pháp, không khởi, không phát ra việc làm, nên đấy gọi là chánh tinh tấn.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không khởi sự nhớ nghĩ ngay trong các pháp, nghiệp nhớ nghĩ đã lìa, cũng không gây khó khăn cho ý, đấy gọi là chánh niệm.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp, bản tánh nhập định, không tán loạn, không theo duyên, không thể nắm bắt. Đấy gọi là chánh định.
Mạn Thù Thi Lợi! Nên thấy tám phần đạo của Bậc Thánh như vậy.
Mạn Thù Thi Lợi lại thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao nên thấy năm căn?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu tin các pháp không sinh. Do bản tánh không sinh, nên gọi là tín căn.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu tâm không theo đuổi các pháp. Do xa lìa sự nghĩ gần, nghĩ xa, nên gọi là tinh tấn căn.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không khởi ý niệm ngay trong các pháp, do lìa tánh theo duyên, niệm không bị trói buộc. Nên gọi là niệm căn.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không nhớ, không nghĩ, đối với các pháp, coi như huyễn, không thể nắm bắt, gọi là định căn.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp lìa sinh, lìa vô trí, bản tánh trống không, thì gọi là tuệ căn. Mạn Thù Thi Lợi, nên thấy năm căn như vậy.
Mạn Thù Thi Lợi lại thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao nên thấy bảy giác phần?
Phật đáp:
Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các pháp không có tự tánh, không khởi lên ý niệm, thì gọi là niệm giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu lựa chọn các pháp rồi, mà không nắm bắt được tốt không tốt hay ở giữa. Do không thành tựu được sự nắm bắt đó nên gọi là trạch pháp giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu đối với ba cõi không giữ, không bỏ, vì biết ý tưởng về cõi giới sẽ hoại, nên gọi là tinh tấn giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu trong các hành không trói buộc nơi cái vui. Do biết vui, không vui sẽ hoại, nên gọi là hỷ giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu trong các pháp tâm này dừng nghĩ, gọi là chỉ tức giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu biết tâm không thể nắm bắt được các pháp, do theo đó mà hiểu, nên gọi là định giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu ở trong các pháp, không nương tựa, không ở, không chìm đắm, không trói buộc, không thấy các pháp nhưng đạt được sự buông bỏ, gọi là xả giác phần.
Mạn Thù Thi Lợi! Nên thấy bảy giác phần như vậy.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu ai thấy bốn Thánh đế, bốn niệm xứ, tám phần đạo của Bậc Thánh, năm căn, bảy giác phần như vậy.
Ta sẽ nói, họ là người được độ, gọi là người đã qua bờ bên kia, gọi là người đến được đất liền, gọi là người được sự an ổn, gọi là người được sự không sợ hãi, gọi là người đã sạch bụi trần. Người không có gì. Người không bị dục quấy nhiễu, không bị chướng ngại. Là bậc A La Hán. Người dứt sạch các lậu.
Người làm việc đáng làm, việc cần làm đã hoàn tất. Người rời xa gánh nặng. Là người được lợi cho mình, người sạch mọi trói buộc. Thậm chí gọi là người tâm được tự tại, đạt được sự giải thoát thù thắng.
Là bậc Sa Môn, là Bà La Môn. Người có khả năng độ. Là người vượt qua Lặc đà ca. Là người Thâu lư đế nghi dạ. Là Phật. Là Phật tử. Là Xà ca tử.
Là người đạp phá gai góc. Là người từ bỏ tường hào. Là người vượt qua tường hào. Là người nhổ mũi tên độc. Là người xa lìa khổ não. Là Tỳ Kheo. Là Bậc Thánh. Là người đầy đủ cờ hiệu.
Này Mạn Thù Thi Lợi! Tỳ Kheo nào đầy đủ nhẫn như vậy, thì có khả năng bố thí một cách thanh tịnh, sẽ được sự cúng dường của các hàng trời, người…
Thế nên, này Mạn Thù Thi Lợi! Tỳ Kheo nào muốn không hư thực, nơi mà người dân trong nước được đầy đủ, muốn phá sự kiểm soát của ma, muốn vượt qua khỏi sự lưu chuyển, muốn thuận đến Niết Bàn, muốn giải thoát khổ não, muốn làm người ban ruộng phước sạch cho các hàng Chư Thiên, nhân gian…
Thì hãy nên siêng năng tu tập tương ưng với pháp này. Khi nghe Phật nói lời này, có ba mươi hai ngàn Thiên Tử, chứng được sự thấy đối với pháp.
Những vị Thiên Tử này tung hoa: Mạn Đà La, Hoa Ma Ha Mạn Đà La lên trên Phật.
Rồi nói: Bạch Đại Đức Thế Tôn! Nếu như ai nghe được pháp này, người đó sẽ khéo xuất gia trong giáo pháp Như Lai.
Huống gì nghe, rồi còn tin hiểu, làm duyên, như thật mà phụng hành?
Bạch Thế Tôn! Thậm chí, nếu nghe lời nói này, những chúng sinh ấy, cũng sẽ không còn tăng thượng mạn.
Khi ấy, Mạn Thù Thi Lợi lại thưa: Bạch Đại Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói Đà La Ni cú, vì Đà La Ni này sẽ khiến cho hàng Bồ Tát, không vướng mắc vào nơi biện luận. Không còn sự sợ hãi bất cứ một âm thanh nào. Phát sinh ra các pháp, ở trong Phật Pháp. Tin hiểu các pháp là đạo một tướng.
Nghe nói như vậy, Đức Phật liền bảo với Bồ Tát Mạn Thù Thi Lợi Đồng Chân: Này Mạn Thù Thi Lợi! Vì do nhân duyên này, ta sẽ nói pháp môn Kê La Cú và chủng tử cú. Vì pháp môn này, sẽ khiến cho các hàng Bồ Tát, được sự sáng tỏ đối với các pháp, chóng đạt được nhẫn trong pháp vô sinh, nên ông hãy khéo lắng nghe.
Mạn Thù Thi Lợi lại hỏi: Vì sao lại có tên là pháp môn Kê La Cú và chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các chúng sinh có tâm thuần nhất, là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các chúng sinh, tâm đều không có được sự theo duyên và vì không thể nắm bắt được, nên gọi đấy là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Tâm của chúng sinh đều cùng một lượng, ấy là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi tiếp: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Tâm các chúng sinh như lượng của hư không, nhập vào hạnh bình đẳng không dính mắc, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Một chúng sinh trong số các chúng sinh kia, là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nói các chúng sinh, kỳ thực chỉ là một, rốt ráo không sinh, xa lìa tên gọi, vì là một, là khác, không thể nắm bắt, nên gọi đây là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Ông muốn hỏi Kê La Cú ư?
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Muốn không thể lay động đối với tánh pháp giới. Vì không trụ, vì không lay động, nên bản tánh xa lìa, do vậy đấy gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Sân là Kim cương cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kim cương cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Sân không thể phá, cũng không thể cắt đứt. Như Kim cương kia không thể phá lại không thể dứt.
Thật đúng như vậy, này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp cùng đều không phá, không cắt đứt, vì các việc không thành tựu, nên gọi là Kim cương cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Si là trí cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là trí cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Tức là trong trí, các pháp thay nhau diệt, xa lìa không trí, như hư không kia, chẳng phải trí, mới đầy đủ, cũng chẳng phải không trí mới đầy đủ.
Thật đúng như vậy, này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp chẳng phải trí mới đầy đủ, cũng chẳng phải không trí mới đầy đủ. Vì trí và không trí cùnglà chỗ biết nhau, bản tánh đều vắng lặng, nên gọi là trí cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Sắc là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Như cửa quyết của Thiên đế, không động, không lay, là bởi do khéo trụ vậy.
Thật đúng thế, Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp trụ nơi pháp giới. Vì do không trụ, nó cũng không tới, không lui, không nắm, không bỏ, cũng không có việc làm gì đối với người khác, là do trụ nơi không trụ, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Thọ là Tịch tĩnh cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Tịch tĩnh cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Bản tánh các thọ là vắng lặng, không trong, không ngoài, không phương Đông, không phương Tây, không phương Nam, không phương Bắc, không trên, không dưới, không trong mười phương.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu ưa thọ ở bên trong, chúng sinh chỉ hướng về ưa.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu khổ thọ ở bên trong, chúng sinh chỉ hướng về khổ.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu không khổ, không ưa thọ ở bên trong, chúng sinh chỉ hướng về si.
Mạn Thù Thi Lợi! Thế nên, các thọ là không trong, không ngoài, không phương Đông, không phương Tây, không phương Nam, không phương Bắc, không trên, không dưới, không trong mười phương, có thể nắm bắt được. Do đó, các chúng sinh đều tựa như cỏ cây, cùng với tường vách, bản tánh không sinh, không diệt. Nên gọi là Tịch tĩnh cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Tưởng là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Phân biệt ý tưởng mà khởi lên, là sinh ra không như thật, tướng không quyền tợ như tự tướng của đóm lửa sáng, bản tánh là xa lìa. Nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Hành là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Những ý tưởng không chánh đáng, sinh ra nơi hành động, các số đã xa lìa, vô số vượt hẳn số, khác nào như lõi cây chuối.
Mạn Thù Thi Lợi! Như lõi cây chuối, cuối cùng tự nó không. Đó là do không thể nắm bắt, bản tánh không sinh.
Thật đúng như vậy, này Mạn Thù Thi Lợi! Bản tánh các pháp tự xa lìa tên, do đã xa lìa, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Thức là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Thức như tướng huyễn không sinh, không xuất, không, không tướng, không tự tánh, không dáng vẻ. Giống như hư không, dùng năm ngón tay vẽ lên đó vậy. Nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Sắc là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Vì do không sinh các sắc.
Mạn Thù Thi Lợi! Như ảnh, tuy thấy nhưng lại không.
Đúng vậy, Mạn Thù Thi Lợi! Các sắc tuy thấy, nhưng lại không có. Chỉ có con mắt mê hoặc, tâm mê hoặc, sự giả dối và pháp không thật, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Thanh là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không có mọi tướng.
MạnThù Thi Lợi! Các thanh không hai, nói năng giống như tiếng vang nơi núi, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Hương là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi đó là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! các pháp không hôi thối, bản tánh chậm lụt đồng như hư không, cái hương mà mũi ngửi hôi thúi, không thể nắm bắt. Nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Vị là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Phạm vi của mùi vị là không thể suy nghĩ, mùi vị không thể nhận thức, xa lìa nơi thức, xưa nay tự tánh vốn xa lìa. Nên gọi đó là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Xúc là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không thể đắm xúc, như hư không xa lìa, khéo hoại thân, xúc không khởi tác, xúc tự xa lìa. Nên gọi đấy là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Pháp là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không tâm, lìa tâm, tự tánh không thành, lìa danh, lìa tướng, như bản tánh của pháp giới vậy. Nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Đất là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không cứng, không mềm, nhưng do giả dối hòa hợp mà người cho là cứng. Nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Nước là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không ẩm ướt, không tạp, không nhơ bẩn như màn ánh sáng của lửa, nên gọi đó là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Hỏa là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không ấm, không nóng, nó vốn lìa bỏ, tự tánh vắng lặng, không thật, không sinh, do điên đảo phân biệt, nên gọi đó là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Gió là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không dính mắc, không ngại, không đi vội, không tự tánh, luồng gió đi qua không lay động, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Phật là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không tác giác, không giác, không tùy thuận giác, không đẳng giác, do giác lìa, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Pháp là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là chủng tử cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không đoạn, không phá, lìa đoạn lìa phá, không danh, không tướng, lìa danh, lìa tướng. Cũng không tự tánh. Chỉ do lời nói ra mà thôi, nên gọi là chủng tử cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Tăng là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Như ngằn mé của pháp giới, không trụ vào Chúng Thánh.
Trì giới, phá giới: Bình đẳng.
Định loạn: Bình đẳng.
Trí với không trí: Bình đẳng. Giải thoát với phiền não: Bình đẳng, không có sự an trụ nơi các pháp, không thể nắm bắt được xứ hay phi xứ, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Cảnh giới của các pháp là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi đó là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp như cảnh giới của hư không, không thể suy nghĩ về cảnh giới, các cảnh giới ấy hoàn toàn không có các sự vật, trong ấy hư không cũng đoạn, không thể đạt được, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không theo duyên là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi đó là Kê La Cú?
Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không nơi chốn, không chỗ dựa, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không phá là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không thể thấy, do không sắc, không thể thấy, nên không thể cắt đứt, không thể phá, không thể nắm bắt, không thể dính mắc, không thể giải thoát, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không nắm giữ, không buông bỏ là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi đó là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp cùng về, giống như cùng hợp với pháp giới. Nó không phát khởi nắm giữ, cũng không buông bỏ, không cầu, không mong, các sự mong cầu đã cắt đứt, bản tánh vắng lặng giống như hư không. Nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không lỗi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không bẩn, cũng không có được, trong sạch và tỏa sáng, hết sức trong sạch, trong sạch như hư không, tội đã không thể nắm bắt được do đó không có lỗi, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không chỗ ở là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không việc gì, vắng lặng, không giữ gìn, nên gọi là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không học là Kê La Cú.
Mạn Thù Thi Lợi hỏi: Bạch Thế Tôn! Do đâu gọi là Kê La Cú?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp không học, nó không chịu học, không chịu tu, không chịu nghĩ, không chịu nhớ, không chịu ở, không chịu phát, không chịu hành, không chịu cắt đứt, không chịu chứng.
Không chịu nói, không chịu hiện rõ, không chịu cầu, không phơi bày tên, không sâu, không cạn, không sinh, không diệt, không sạch, chẳng phải không sạch, không phân biệt nói, không theo số đông nói, không theo duyên, không ôm giữ, không cởi, không vứt, không bỏ… tại sao vậy?
Mạn Thù Thi Lợi! Các pháp đã bỏ rốt ráo, bản tánh không nắm giữ, thường là buông bỏ. Nó chẳng phải hành động của trí, cũng chẳng phải hành động của vô trí, nên gọi là Kê La Cú.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ty Hạ
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Pháp Môn Căn Bản - Phần Bảy - Bậc A La Hán Iv
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nhất Tự đà La Ni Trong đại Phương Quảng Bồ Tát Tạng Kinh
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Hành Sanh
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Bảy - Pháp Hội Bảo Kế Bồ Tát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Thân Hành Niệm - Phần Chín - Sự Phát Triển Qua Thân Hành Niệm
Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Thập Thượng - Phần Sáu - Bảy Pháp