Phật Thuyết Kinh Các Pháp Vốn Không Kinh Chư Pháp Bản Vô - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH CÁC PHÁP VỐN KHÔNG
KINH CHƯ PHÁP BẢN VÔ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẦN HAI
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Sư Tử Du Bộ bèn bạch Phật: Đại Đức Thế Tôn! Khi Thế Tôn nói bài kệ này, có bao nhiêu chúng sinh nghe được và làm lợi ích?
Nghe hỏi vậy, Phật bảo Đại Bồ Tát Sư Tử Du Bộ: Này Thiện Gia Tử! Ông có thấy chúng đây, tập họp bàn luận không?
Đáp: Con đã thấy, thưa Thế Tôn! Con đã thấy, thưa Thiện Thệ! Con số đã vượt qua cả tính toán. Cả đến những hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Già Lưu Nại, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, đầy khắp cả hư không và cùng với những chúng sinh khác, ở khắp các Thế Giới, tại chúng hội thuyết pháp này, đều đã nghe bài thuyết pháp này.
Nghe nói như vậy rồi, Phật bảo với Đại Bồ Tát Sư Tử Du Bộ: Thiện Gia Tử! Khi nói bài pháp này, có chín mươi tám ngàn Thiên Tử đạt được nhẫn trong pháp vô sinh. Có chín mươi hai ngàn Dạ xoa sinh tâm đối với Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Có ba mươi sáu ngàn rồng, sinh tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có năm trăm Tỳ Kheo tăng thượng mạn, ý chưa đạt được, tưởng đã đạt khi được nghe Kinh này.
Nghe được bài pháp nói về ngã mạn này, liền tin hiểu các pháp là đạo một tướng, không còn gì để thọ nhận nên lậu tâm được giải thoát. Trong số Bồ Tát kia, có sáu mươi hai ngàn Bồ Tát, tin hiểu các pháp, không có chướng ngại, đạt được nhẫn trong pháp vô sinh.
Tại sao?
Thiện Gia Tử! Vì đây là bài pháp cao tột trong các bài pháp đã được nói.
Thiện Gia Tử! Như khi ở trước Đức Như Lai Nhiên Đăng, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Ta đã tin hiểu ngay được các pháp là đạo một tướng. Ngay sau đó, ta liền đạt được nhẫn trong pháp vô sinh.
Thiện Gia Tử! Nếu đạt được sáu pháp Ba la mật, nếu lại nghe pháp này thì xưa nay, cả hai cùng một thể.
Thiện Gia Tử! Đại Bồ Tát nhờ nơi đạo này mà đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật.
Ta nói như vậy, là tại sao?
Thiện Gia Tử! Như có Bồ Tát trong hằng hà sa đẳng kiếp, thực hành bố thí, giữ giới, siêng năng, tu nhẫn, nhập định, tu trí. Nhưng do vì không biết đạo pháp này, nên tất cả căn lành có được, hoàn toàn bị mất sạch!
Thiện Gia Tử! Ngươi hãy xem Đề Bà Đạt Đa đấy. Mặc dù có đủ căn lành, đủ ba mươi tướng như vậy. Nhưng do vì không biết đạo pháp này, mà ông ta đã mất hết các căn lành, đọa vào trong đại địa ngục.
Thiện Gia Tử! Vì lý do này, ông nên biết: Các căn lành bị dứt sạch chính là bởi không biết đạo pháp này vậy!
Thiện Gia Tử! Vô số kiếp A tăng kỳ, ở quá khứ, lại vượt trội hơn cả vô số, rộng lớn vô lượng, không thể nghĩ, không thể lường. Có vị Phật ra đời, tên là Mễ Lưu Thượng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Thế Tôn.
Vị Như Lai ấy sống lâu đến chín mươi chín câu chi na do tha trăm ngàn năm. Thế Giới Phật ấy, tên là Kim diễm ảnh. Đất trong Thế Giới ấy, được làm bằng vàng. Đức Như Lai ấy cũng dùng ba Thừa giáo hóa, khiến cho chúng sinh nhập vào Niết Bàn.
Ba thừa ấy là:
1. Thanh Văn thừa.
2. Độc Giác thừa.
3. Bồ Tát thừa.
Hội thứ nhất của Như Lai ấy, hàng Thanh Văn có đến tám mươi trăm ngàn câu chi na do tha. Những vị này đều là những bậc A La Hán, các lậu đã dứt, việc cần làm đã làm xong, vứt bỏ được gánh nặng, đạt được lợi ích cho mình, chấm dứt mọi trói buộc của phiền não, dùng trí bình đẳng khéo được giải thoát.
Ở hội thứ hai, hàng Tỳ Kheo có bảy mươi trăm ngàn câu chi na do tha.
Hội thứ ba, hàng Tỳ Kheo có sáu mươi trăm ngàn câu chi na do tha.
Hội thứ tư, hàng Tỳ Kheo có hai mươi lăm trăm ngàn câu chi na do tha.
Lại có lượng Tỳ Kheo Ni nhóm lại, gấp đôi số trên. Lại có lượng Ưu Bà Tắc nhóm lại, gấp đôi số trên. Lại có lượng Ưu Ba Di nhóm lại, gấp đôi số trên. Lại có lượng chư Bồ Tát nhóm lại, gấp đôi số trên.
Các Bồ Tát này, đều là những vị đã đầy đủ pháp nhẫn vô sinh, khéo léo phát ra vô biên Tam Ma Địa đạo, đạt được vô biên Tổng trì môn, chuyển bánh xe pháp không thoái chuyển, huống chi là hàng Bồ Tát ở thừa thứ nhất mới phát hạnh. Trong số đó, lại có vô lượng vô số những vị Độc Giác thừa.
Thiện Gia Tử! Vào lúc đó, vị Phật ấy, có vô lượng vô số các Thanh Văn.
Thiện Gia Tử! Tại Thế Giới Kim diễm ảnh ấy, có những cây những trụ được làm bằng bảy báu.
Cây báu ấy phát ra những âm thanh như sau: Âm thanh không, âm thanh không tướng, âm thanh không nguyện, âm thanh không sinh, âm thanh không chỗ có, âm thanh không hình dáng.
Ngay khi cây báu phát ra âm thanh như vậy, những chúng sinh ở trong Thế Giới này nghe được, tâm liền giải thoát. Sau khi Đức Như Lai diệt độ một ngàn năm, chánh pháp hết trụ ở đời, thì các âm thanh ấy cũng không còn phát ra nữa.
Thiện Gia Tử! Đức Như Lai, Ứng Cúng, chánh Biến Tri, Mễ Lưu Thượng Vương ấy khuyên nên mời Tỳ Kheo tịnh thiện hạnh thuyết pháp. Khi Tỳ Kheo này thuyết pháp rồi, Đức Phật ấy mới diệt độ.
Thiện Gia Tử! Lúc đó lại có một Tỳ Kheo khác, tên là Thiện Hạnh Ý. Tỳ Kheo này, đầy đủ sự tích tụ giới trong sạch, tốt lành, lại đạt được năm thông, trí thế gian cao cả, cũng có khả năng lưu truyền và tụng luật tạng. Tỳ Kheo này, lại có khổ hạnh cao tột, tin ưa sự trong sạch, dè dặt, lãnh đạo chúng để thuyết giáo. Tạo lập chỗ ở an vui và trụ trong đó.
Đồ chúng của vị Tỳ Kheo này, khéo trụ vào giới tụ, tin ưa công đức Đầu Đà, cùng sống đơn giản. Tỳ Kheo này, cũng phát khởi siêng năng tu hành, nhưng lại xa lìa tâm bồ đề. Tỳ Kheo này, có chúng Bồ Tát khác. Cũng đem đạo oai nghi mà giáo hóa, khiến họ giống như mình.
Đem sự hiểu biết của mình, chỉ bảo cho mọi người, nắm chặt các hành là vô thường, nắm chặt các hành là khổ, nói các hành là vô ngã. Tỳ Kheo này, không có trí tuệ khéo léo, cũng không có sự khéo léo đối với hạnh Bồ Tát.
Mặc dù là như vậy, nhưng Tỳ Kheo này lại có đầy đủ căn lành. Còn vị Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh kia, biết rõ căn cơ của mỗi chúng sinh, có sự khác biệt nhau. Đồ chúng của vị Tỳ Kheo này, không chú trọng đến công đức hạnh Đầu Đà và lối sống đơn giản, cả đến phương tiện khéo léo đối với nhẫn vô sở đắc.
Thiện Gia Tử! Khi ấy, Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh, cùng đồ chúng của mình, đến ở tại nơi ở của Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý. Nhưng do vì thương xót chúng sinh, nên cũng nhiều lần vào thôn xóm khất thực, xong xuôi rồi mới ra.
Ông ta, đã khiến cho hàng trăm ngàn nhà, phát khởi lòng tin trong sạch. Đồ chúng của vị Tỳ Kheo này, cũng khéo léo trong việc cảm hóa, hướng dẫn, đến từng nơi ở của mọi người mà nói pháp, khiến cho hàng trăm ngàn người phát khởi tạo lập nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Trong khi đó, những đồ chúng của Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý, lại ưa thích việc tu định, không thường vào thôn xóm. Lúc bấy giờ, ở trước Tỳ Kheo tịnh thiện hạnh cùng đồ chúng của ông ta bên cạnh.
Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý sinh tâm không sạch nói: Đây chính là Tỳ Kheo biếng nhác thường xuyên vào thôn xóm.
Bèn đánh bảng nhóm họp các Tỳ Kheo lại, tự mình ra lệnh: Các ông, không một ai, được vào thôn xóm.
Rồi xoay sang số đồ chúng của Tỳ Kheo tịnh thiện hạnh, nói: Các ông không biết rõ việc làm, không tiết chế lời nói.
Tại sao các ông, lại nhiều lần đi vào xóm làng vậy?
Chư Phật, Thế Tôn khen ngợi biết bao, về việc ở nơi không ồn ào. Các ông chớ đến nhà người, mà phải nên vui vẻ ở trong suy nghĩ và thiền định.
Thiện Gia Tử! Khi ấy, đối với những điều mà Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý đặt ra. Vì muốn thành thục cho các chúng sinh, nên Tỳ Kheo tịnh thiện hạnh cùng đồ chúng của mình, không chấp nhận theo những điều đặt ra ấy, nên lại vẫn nhiều lần đi vào thôn xóm.
Thiện Gia Tử! Khi Tỳ Kheo này đi ra khỏi thôn xóm, Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý lại đánh bảng, nhóm họp chúng Tỳ Kheo lại mà nói: Nếu như vẫn còn tiếp tục vào xóm làng, tôi sẽ không chấp nhận cho các người ở đây nữa.
Thiện Gia Tử! Vì muốn chở che cho Tỳ Kheo này, Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh, bèn bảo với đồ chúng của mình: Các vị, không ai được vào xóm làng! Không thấy các Tỳ Kheo xuất hiện, những người ở trong thôn đã được Tỳ Kheo kia thành thục, thảy đều ôm lòng buồn rầu, khổ sở, pháp lành cũng giảm mất.
Thiện Gia Tử! Ba tháng đã xong, Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh ra khỏi chỗ ở này, đến ở nơi khác. Tỳ Kheo này lại cùng với đồ chúng của mình, tiếp tục đi vào thôn ấp, thành quách, Kinh Đô, vì các hàng chúng sinh mà nói pháp.
Thiện Gia Tử! Vẫn thấy Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh nhiều lần vào xóm làng, vẫn thấy đồ chúng kia bản tánh oai nghi, đi vào trong thôn xóm.
Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý sinh tâm không sạch, chỉ nghĩ: Tỳ Kheo này đúng là ác giới, phá giới, tự mình đã vậy, lại khiến cho đồ chúng của mình cũng như thế.
Kẻ ngốc này làm sao có bồ đề được! Chỉ là kẻ hư dối mà thôi!
Ông ta lại còn nói với mọi người: Tỳ Kheo này đức hạnh, lộn xộn, quá cách xa bồ đề, chỉ biết quý trọng lợi ích riêng, dính mắc nơi nhà người.
Thiện Gia Tử! Một thời gian sau, Tỳ Kheo Thiện Hạnh Ý này mất. Nhưng bởi do lúc trước, sinh tâm không sạch, gây nghiệp đã chín muồi nên khi chết đi, liền bị đọa vào địa ngục A tỳ, cho đến các địa ngục lớn khác.
Trải qua chín mươi chín câu chi trăm ngàn kiếp, ở trong các địa ngục lớn, chịu đủ mọi nỗi cực khổ tại các địa ngục này. Trong sáu mươi ba trăm ngàn đời thường bị chê bai.
Vì do nghiệp chướng còn sót lại, nên trong suốt ba mươi ba trăm ngàn đời, được xuất gia, nhưng rồi cũng bị hoàn tục. Về sau xuất gia trong giáo pháp của Như Lai Vô Cấu Nhiễm, là Đấng Ứng Cúng, chánh Biến Tri.
Mạng sống dài lâu, siêng năng tu hành như cứu lửa trên dầu, trong suốt câu chi trăm ngàn năm, nhưng cũng vẫn chưa từng đạt được tùy thuận đạo nhẫn. Lại do nghiệp còn sót lại kia, nên phải tiếp tục chịu tối tăm ngu muội, trong suốt trăm ngàn đời nữa.
Thiện Gia Tử! Đối với Tỳ Kheo thuyết pháp tịnh thiện hạnh vào thời ấy, ông chớ nên có cái nhìn sai khác.
Tại sao?
Đó chính là Đức Như Lai Bất Động, vào khi xưa là vị Tỳ Kheo thuyết pháp tên là tịnh thiện hạnh.
Thiện Gia Tử! Tỳ Kheo thuyết pháp thời ấy là Thiện Hạnh Ý, ông chớ nên có cái nhìn sai khác.
Vì sao?
Vì đó chính là ta đây, khi xưa là Tỳ Kheo thuyết pháp tên Thiện Hạnh Ý. Vào thời đó, ta sinh tâm không tốt với mọi phương tiện vi tế, rồi gây ra nghiệp chướng phải bị đọa vào địa ngục lớn.
Thiện Gia Tử! Nghiệp chướng có những cái rất là nhỏ như vậy đấy.
Thiện Gia Tử! Nếu Bồ Tát nào không muốn có nghiệp chướng như vậy thì không nên chống trái với những hạnh tu, của hàng Bồ Tát thứ hai.
Phải tin thuận những việc đã gây ra, nên luôn sinh tâm như vậy: Ta không biết tâm người khác, cũng khó thể biết được những việc làm của chúng sinh.
Thiện Gia Tử! Vì thấy được nghĩa này, nên Như Lai mới nói pháp như vậy cho chúng sinh. Chúng sinh không nên lựa chọn. Chỉ có ta mới có thể lựa chọn chúng sinh và những gì tương tự ta mà thôi.
Thiện Gia Tử! Nếu muốn tự bảo vệ thì không nên lựa chọn. Nếu có ai làm điều gì, thì chớ nên ngăn chặn họ. Tướng như vậy đấy, nên siêng năng tạo sự tương ưng với Phật Pháp, ngày đêm siêng năng nhớ nghĩ tương ưng với pháp.
Thiện Gia Tử! Bồ Tát nào nếu phát hạnh tâm sâu xa, thì không nên ngăn trở chỗ ở của người, mà phải nên siêng năng tùy thuận, cùng nhau tu hành.
Thiện Gia Tử! Giả sử, nếu có Bồ Tát nào, khiến cho tất cả chúng sinh, trong tam thiên đại thiên Thế Giới, được an vui ở nơi con đường của mười điều lành.
Nếu có Bồ Tát nào một mình đến nơi vắng vẻ, chỉ trong một khoảnh khảy móng tay, tin các pháp là đạo một tướng. Hoặc hỏi hoặc cùng nhau nghị luận. Hoặc nói hoặc dạy dỗ, đọc tụng. Hoặc tự tụng. Thì lượng phước đức đạt được, vượt hơn cả lượng chúng sinh trong tam thiên đại thiên Thế Giới.
Vì sao?
Thiện Gia Tử! Vì do nơi đạo này, mà hàng Đại Bồ Tát, mới đạt được những nghiệp chướng trong sạch, xa lìa sự yêu ghét đối với các chúng sinh, chóng đạt đến biên giới trí tuệ.
Bấy giờ, đồng chân Mạn Thù Thi Lợi, liền bạch Phật: Nói rằng nghiệp chướng trong sạch.
Bạch Thế Tôn!
Vậy Bồ Tát làm thế nào để nghiệp chướng sẽ trong sạch?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu Bồ Tát nào, thấy các pháp là không nghiệp, không báo. Thì Bồ Tát đó, đang đến với nghiệp chướng trong sạch.
Lại nữa, Mạn Thù Thi Lợi! Nếu có Bồ Tát nào, đối với dục tế mà thấy như thật tế. Thì người đó, sẽ đến với nghiệp chướng trong sạch. Đối với sân tế, si tế, tức thấy thật tế, người đó sẽ đến với nghiệp chướng trong sạch.
Lại nữa, này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu Bồ Tát nào thấy các chúng sinh tức cõi Niết Bàn. Vị ấy sẽ đạt đến nghiệp chướng trong sạch.
Vì sao?
Này Mạn Thù Thi Lợi! Vì người kia có cái nhìn tùy thuận về nghiệp chướng, nên được trong sạch.
Này Mạn Thù Thi Lợi! Do có bốn tâm điên đảo, chúng sinh không thể thấy một cách như thật, về bốn Thánh đế, không thể vượt qua được sự lưu chuyển không thật.
Nghe Phật nói vậy, Mạn Thù Thi Lợi lại bạch: Theo như lời Thế Tôn nói, vậy tại sao, chúng sinh có được sự hiểu biết, mà lại không thể vượt qua được dòng lưu chuyển?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Vì dính mắc vào ta, vào cái ta có, nên chúng sinh không thể vượt qua được dòng lưu chuyển.
Vì sao?
Này Mạn Thù Thi Lợi! Hễ ai thấy mình người, thì người ấy có nghiệp hạnh.
Mạn Thù Thi Lợi! Hàng chúng sinh phàm phu thấp kém, do không nghe, nên không biết các pháp rốt ráo diệt độ. Họ thấy được có mình và người. Khi thấy vậy, chúng sinh này lại gây ra ba nghiệp về thân, miệng và ý.
Đối với sự không có, họ lại nắm chặt là có, rồi phân biệt có tham của ta, sân của ta, si của ta.
Như được xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, họ lại nghĩ: Ta đủ giới, ta tịnh hạnh, ta đương vượt qua sự lưu chuyển, ta đương đắc Niết Bàn, ta đương giải thoát khổ.
Rồi họ lại phân biệt: Pháp này tốt, pháp này xấu, pháp này nhơ, pháp này không nhơ, pháp này biết, pháp này dứt, pháp này chứng, pháp này tu.
Đó gọi là: Khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.
Họ lại phân biệt: Các hành là vô thường, các hành là khổ, các hành là sự thiêu đốt, ta nên ra khỏi các hành. Khi khởi lên sự xem xét kỹ như vậy rồi, họ liền có sự nhàm chán, buông bỏ, đối với sự tưởng niệm hòa hợp.
Tướng này thực hành trước, họ liền nghĩ: Khổ này nên biết.
Nếu các pháp này là những pháp nên biết, họ lại nghĩ: Ta nên đoạn tập.
Đối với các pháp, họ xấu hổ, nhàm chán, sợ hãi, nên họ nghĩ: Tập này nên đoạn.
Nếu các pháp này, là pháp xấu hổ, nhàm chán, họ liền nghĩ: Diệt nên chứng, đạo nên tu.
Pháp này đã phân biệt, lại biết đến diệt, họ nghĩ: Đây chính là diệt, diệt này nên chứng.
Nếu các pháp đấy, là những pháp nên chứng, họ lại nghĩ: Ta nên tu đạo. Họ liền một mình đến nơi vắng vẻ, suy nghĩ các pháp, đạt được sự thiền định, diệt trừ mọi lo nghĩ. Vì đạt được sự thiền định, nên đối với các pháp, tâm họ tự nhiên mở bày thấm mát, trở lại sinh tâm xấu hổ không vui vẻ.
Họ lại nghĩ: Ta thoát các khổ, đối với những điều ở trên, không phải ta đã làm, ta tự gọi là A La Hán. Tạo ra cái biết như vậy rồi, khi sắp chết, họ thấy được nơi thọ sinh, liền có sự nghi hoặc, ý không chánh đáng, đối với Phật bồ đề. Bởi tâm họ đã đọa, nơi nghi hoặc ấy, nên khi chết đi, họ liền bị rơi vào các địa ngục lớn.
Vì sao?
Vì rơi vào sự phân biệt đối với các pháp vô sinh, nên mới có tâm phá hại đối với Phật bồ đề.
Bấy giờ, Đồng chân Mạn Thù Thi Lợi lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao nên thấy bốn Thánh đế?
Phật đáp: Này Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy các hành là không sinh, họ liền biết khổ. Nếu thấy các hành không khởi, họ liền đoạn tập. Nếu thấy các pháp rốt ráo Niết Bàn, họ liền chứng diệt. Nếu thấy các pháp không có, họ liền tu đạo.
Mạn Thù Thi Lợi! Nếu thấy bốn Thánh đế như vậy, họ sẽ không có sự phân biệt, pháp này tốt, pháp này xấu, pháp này nên biết, pháp này nên dứt, pháp này nên chứng, pháp này nên tu, đó gọi là: Khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng và đạo nên tu.
Tại sao?
Như các phàm phu thấp kém đắm nơi giận si. Thấy các pháp kia, trong đó, không sinh, không có, không thật, phân biệt, bị trói buộc. Khi thấy như vậy rồi, họ không có giữ hay bỏ đối với các pháp.
Thấy các dục, sân, si… đều như tự tánh của hư không. Đối với ba cõi, họ không còn có sự dính mắc. Đối với ba cõi, họ thấy không sinh. Họ thấy ba cõi như huyễn, như mộng, như âm vang, như hình bóng.
Đối với pháp tốt, xấu, họ thấy như tia lửa sáng. Họ thấy Cõi Dục tức cõi Niết Bàn. Thấy cõi sân giận tức cõi Niết Bàn, thấy cõi ngu si tức cõi Niết Bàn. Thấy tự tánh các pháp như vậy, họ liền xa lìa mọi sự yêu ghét, đối với các chúng sinh.
Vì sao?
Vì đối với các pháp, họ không còn thấy có yêu, có ghét, tâm họ ngang bằng như hư không, cũng không thấy Phật, cùng Pháp và Tăng.
Bởi không thấy các pháp, nên họ không thể sinh mối nghi, đối với các pháp. Khi đã không còn nghi, liền không có sự nắm bắt. Đã không có sự nắm bắt, liền không có sinh, đó chính là Niết Bàn.
Này Mạn Thù Thi Lợi! Thượng Tọa Tu Phù Đế biết pháp như vậy, nên không đến lễ dưới chân Như Lai.
Sao vậy?
Chính thân của mình, ông ta còn không thấy, huống nữa là thân Như Lai, hoàn toàn không có chuyện đó.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi Năm - Phẩm Tánh Không
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Vacchagotta
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Bốn Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bản Duyên - Phẩm Ba - phẩm Vương Tử Nhất Thiết Trì
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Phần Ba