Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Hoa - Phẩm Bốn - Tin ưa - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP HOA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM BỐN

TIN ƯA  

PHẦN MỘT  

Lúc bấy giờ Tôn Giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên… được nghe pháp lớn chưa từng có, vốn chưa từng nghe và thấy Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn Giả Xá Lợi Phất sẽ thành đạo vô thượng chánh chân, vừa mừng vừa sợ, phấn chấn, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước chỗ Đức Thế Tôn, sửa y, để trần vai phải.

Quỳ gối, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mà trong lòng hân hoan, sáng suốt, thân tâm cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, tâm trí chuyên nhất bạch Đức Thế Tôn: Kính bạch Đấng Đại Thánh!

Chúng con đứng đầu Chư Tăng, tuổi già suy yếu. Kính mong Thế Tôn cho chúng con được Niết Bàn. Tâm chí của chúng con vẫn mong cầu đạo vô thượng chánh chân, nhưng sức tinh tấn của chúng con đã suy giảm, khôn thể kham nhận việc gì nữa.

Như Lai trước đây giảng pháp, chúng con theo thứ tự ngồi an định trong chúng lắng nghe, không dám mỏi mệt hay nhàm chán.

Lúc ấy Như Lai vì chúng con thuyết pháp. Chúng con đã được ở nơi không, vô tướng, vô nguyện, cho đến các pháp của Phật, không tạo tác đối với tất cả pháp, ưa thích các việc làm của chư Bồ Tát, Như Lai đã nhiều lần khuyến khích giáo hóa chúng con nhưng chúng con đối với ba cõi chỉ muốn vượt qua, thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt được Niết Bàn.

Nay tâm chúng con đã mỏi mệt. Lúc vừa nghe Thế Tôn chỉ dạy giáo nghĩa kỳ diệu chúng con đều chẳng có một ý niệm ham thích đối với tuệ giác vô thượng.

Thế mà nay Thế Tôn lại thọ ký cho hàng Thanh Văn sẽ thành Chánh Giác nên tâm chúng con rất bàng hoàng, kinh ngạc chưa từng có. Chúng con được lợi lành lớn, đã phải nỗ lực tu tập nên mới được nghe phẩm Kinh như thế này.

Chúng con theo Chư Phật quá khứ thường được nghe pháp ấy nên khi vừa được nghe, chúng con như người được vô lượng ngọc báu, thỏa mãn chí nguyện mong mỏi.

Chúng con hiện nay ở tại thế gian mà tâm vô sở úy, tiếng trống, nhạc vi diệu tự nhiên trổi lên, ngọn đèn vĩ đại chiếu rọi khắp nơi, rừng cây Chiên đàn tỏa hương ngào ngạt.

Bạch Thế Tôn! Chúng con há có thể kham nhận được pháp lớn mà Thế Tôn đã nói hay sao?

Đó là điều chúng con xin thưa thỉnh.

Lúc ấy các vị Thanh Văn cùng nhau thưa với Đức Phật: Thuở xưa có người con bỏ cha trốn đi lưu lạc đến địa phương khác sáu mươi năm, rong ruổi bốn phương tìm cầu cơm áo, luôn bị nghèo cùng khốn khổ, chẳng có chút tài sản nào.

Người cha có việc đến địa phương ấy. Ông có vô số vàng bạc châu báu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách chứa đầy trong kho, kẻ hầu hạ, xe cộ, voi ngựa nhiều vô số kể, quyến thuộc đông đảo, bảy báu đầy ắp, thu chi tiền bạc, trồng trọt cày bừa, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo.

Người con nghèo đói phải đi khắp nơi làng mạc, thôn xóm, phố phường trong nước để xin ăn. Lúc ấy đang là mùa thu, ông trưởng giả giàu có đi vào thành xem xét các kho báu. Người cha, cùng con biệt ly đã lâu bỗng nhiên nhớ đến con, không biết con mình ở đâu.

Ông tự nghĩ: Ta có nhiều của cải đầy khắp gần xa mà lại chỉ có một mình.

Nếu mai này ta chết đi thì của cải ấy sẽ tiêu tan.

Ta chỉ mong được gặp lại con ta, tha hồ cho nó sự ăn mặc và giao tài sản cho nó, ta sẽ an vui không còn lo nghĩ.

Khi ấy người con nghèo khổ lần hồi đến nhà ông trưởng giả, đứng trước của nhà nhìn vào, từ xa trông thấy người cha ngồi trên ngai sư tử được làm bằng vàng bạc và các vật quý báu, có các Bà La Môn và mọi người kính cẩn vây quanh, có rèm báu kết ngọc và người cha ngồi trong đó để sai bảo, cắt đặt công việc cho mọi người trong các bộ phận.

Dưới đất được rải đầy các thứ hoa quý, trăm ngàn muôn ức vàng dùng làm đồ dùng ăn uống.

Người con nghèo thấy ông trưởng giả tư thế oai nghiêm như vậy nên rất sợ hãi, không biết vị ấy là ai, cho rằng người này là vua hoặc ngang hàng với vua, do dự không dám tiến bước, nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau.

Người cha trông thấy con lòng rất vui mừng, sai người hầu cận chạy theo gọi người con ấy quay về.

Người con kinh hãi lăn xuống đất, nói với người theo bắt: Tôi không có xúc phạm gì đến các người, tại sao lại bắt tôi?

Người hầu dẫn người con đem về cho trưởng giả.

Trưởng Giả bảo: Chớ nên sợ hãi như thế. Ta vì con mà gầy dựng sự nghiệp với những kho tàng đầy ắp.

Cha con biệt ly đã lâu không gặp, ta nay tuổi già suy yếu, cha con tình sâu nghĩa nặng mới đem con vào nhà này.

Người cha không nói điều này với ai.

Vì sao?

Vì người cha biết ý chí con mình nghèo hèn hạ tiện, không biết phước lực của cha.

Một thời gian lâu sau, người con tâm ý thông hiểu, sắc mặt an hòa, biết được tên mình và quen dần với các vật quý giá, vị trưởng giả liền nói: Đây chính là con của ta.

Rồi ông dùng phương tiện bảo người con: Nay con muốn làm gì tùy ý.

Người con nghèo khổ rất kinh ngạc như được sự chưa từng có, liền đứng dạy đi đến xóm nghèo tìm kiếm cơm áo.

Người cha hiểu con nên dùng phương tiện bảo anh ta: Con cứ tự nhiên đến với họ.

Sau khi người con đến, vị trưởng giả lại sai người đến bảo với anh ta: Ngươi hãy đến ngôi nhà kia, ở đấy đang cần người đánh xe.

Vị trưởng giả cho anh ta voi, ngựa, sai tập làm quen dần với những việc tầm thường.

Nếu có ai hỏi anh ta cũng đáp là làm người đánh xe.

Người cha bảo con: Ngươi phải điều khiển xe, ngựa và quản lý các vật báu trong nhà, tùy ý thích của ngươi, ta sẽ ban phát cho.

Người con muốn gì, người cha cũng chu cấp cho đầy đủ như lời đã nói. Khi ấy người con tập điều khiển ngựa, xe và quản lý rất kỹ lưỡng các châu báu và còn dạy dỗ cho những kẻ lớn nhỏ trong nhà.

Người cha ở bên cửa sổ từ xa trông thấy con mình làm việc giỏi dang, ông liền cởi chiếc áo cũ đã mặc, tắm gội sạch sẽ, tay phải kỳ cọ, mặc y phục đẹp đẽ, đeo chuỗi ngọc quý, toàn thân sạch sẽ, sáng sủa.

Ông bảo với đứa con: Từ trước đến nay con đã xây dựng được cơ nghiệp gì không?

Vì việc gì mà bỏ ta đi nơi khác đến nỗi bị khổ sở đói lạnh?

Ta đã già yếu rồi, nay thật tình khuyên con rằng đã đến lúc con nên cưới vợ, vui chơi, ăn uống để nối dõi phước nhà.

Sản nghiệp ta đã tạo nhiều không kể xiết, đầy đủ đồ quý báu, con có biết không?

Ta mong ngóng con đã nhiều năm qua, mà con lại đi thân cận với bạn ác nay mới quay về. Con phải trừ bỏ những thói quen tật xấu ấy.

Ta có viên ngọc dạ quang minh vô cùng quý giá sẽ đem cho con, kẻ hầu hạ, tôi tớ nam nữ lớn nhỏ tùy ý con muốn, tất cả đều giao cho con.

Ta luôn thương nhớ con cũng như quốc vương may mắn gặp thái tử của họ.

Các ví Thanh Văn cùng thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Khi ấy người con nghèo khổ đã lìa xa gia đình hơn sáu mươi năm, trôi giạt khắp nơi, đến nhà trưởng giả mới gặp người thân, suy nghĩ trước và sau khi gặp cha, tâm đều nhớ hết những việc đã làm.

Khi ấy vị trưởng giả nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết mới bảo người con: Ta nay đã sức cùng lực kiệt. Con nên kế thừa sản nghiệp đồ sộ của ta.

Tất cả tài sản kho tàng quý báu trong nhà, nếu con nhận lãnh, đem giúp đỡ những người nghèo thiếu, sử dụng tùy ý.

Người con nghe cha dạy xong vui mừng khôn xiết, nguyện sẽ thực hành không trái lời hứa.

Người cha biết chí con nên thân hành dạy bảo, trước nghèo sau giàu càng thêm vui mừng, tôn kính than thuộc, lễ bái các bậc Trưởng lão.

Người cha ở trước vua, đại thần và mọi người tuyên bố: Xin các ngài biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra, tên đó họ đó.

Con tôi đã bỏ tôi lưu lạc khắp nơi sáu mươi năm nay mới gặp nhau.

Nó là con của tôi, tôi chính là cha nó. Bao nhiêu cửa cải, tài sản của tôi đều là của con tôi.

Người con nghe cha tuyên bố với mọi người lòng càng thêm vui mừng, tự nghĩ: Ta đời trước có phước báo gì mà được lãnh kho tàng quý báu này?

Các vị Thanh Văn lại thưa: Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có ấy ví như Thế Tôn.

Chúng Thanh Văn Hữu học chúng con được gọi là con của Phật. Ngài cửu giúp chúng con thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, như ông trưởng giả giàu có trở lại đưa đứa con thoát khỏi sự sống chết.

Khí ấy, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có vô số Pháp Bảo của bậc Thánh, dùng năm thần thông đoạn trừ màn ngăn che của năm ấm. Chúng con luôn tinh tấn tu tập theo giáo pháp ấy, đạt đến Niết Bàn cho là ấn chứng vi diệu, tinh tấn mong cầu không giải đãi, muốn được giải thoát tâm ý vắng lặng, nhờ tự thân tư duy thành thục nên đạt được rất nhiều.

Nhưng Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn nương vào pháp thực hành, siêng tu thiền định và thường tin ưa, vì thấy chúng con lười biếng, tâm chí hạ liệt, không phân biệt, không có chí nguyện đối với kho Pháp Bảo quý giá của Như Lai.

Nên Thế Tôn đã dùng phương tiện chỉ cho chúng con thấy rõ kho tàng tuệ giác ấy, nhờ nó mà trừ được đói khổ và được trao ấn chứng vi diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng con tuổi đã già, như Tôn Giả Đại Ca Diếp đây được Như Lai ấn chứng rất sớm là sẽ đạt đến giải thoát.

Thế Tôn lại vì chúng con mà thị hiện giáo nghĩa trí tuệ lớn của Bồ Tát. Chúng con phụng hành và đem chỉ dạy cho mọi người.

Như Lai đã hiển bày đức lớn đều làm cho chúng con được thể nhập giáo nghĩa Như Lai.

Vì sao?

Vì Thế Tôn đã khéo dùng tất cả phương tiện biết chúng con ý chí thấp hèn, không hiểu nổi giáo pháp sâu xa nên dạy hạnh Thanh Văn.

Chúng con sợ hãi các pháp trong sinh, già, chết ba cõi và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, chỉ muốn tự độ mà không cứu độ tất cả chúng sinh, xa lìa phương tiện quyền biến, trí tuệ, đại từ bi, thiền định tam muội, chỉ biết nhân tâm mà không thấy được căn nguyên của tất cả chúng sinh.

Ví như kẻ nghèo cùng mong cầu cơm áo, người cha ân cần muốn đem đến an lạc cho con, nhưng người con không hề hay biết.

Thế Tôn dùng phương tiện tùy lúc thị hiện nên chúng con không nhận thấy, nay mới tự biết mình chính là con Phật.

Chúng con đã được Phật xót thương ban cho đại trí tuệ.

Vì sao?

Vì chúng con tuy là con Phật mà lại hạ tiện, khiếp nhược. Đến khi thấy tâm chúng con hoan hỷ kính tin Bồ Tát thừa nên Như Lai sau đó mới nói cho pháp lớn đại thừa.

Thế Tôn đã vì hai việc mà nói pháp ấy:

1. Vì chư Bồ Tát nên Như Lai hiện pháp cam lộ.

2. Vì hạng người thấp hèn, chí nguyện nhỏ nên Như Lai khuyến khích, chuyển hóa họ đi vào giáo nghĩa vi diệu.

Ví như người con kia cùng cha biệt ly nhau đã lâu, trên đường từ xa trông thấy cha không biết là ai nên rất sợ hãi, dần dần về sau nhìn cách thể hiện uy nghi mới biết đó là của mình.

Phật cũng như vậy, chúng con không hiểu rõ pháp lớn của Bồ Tát, tuy là con của Như Lai, từ pháp sinh ra nhưng chỉ mong Niết Bàn, không có ý chí ngồi dưới gốc cây nơi Đạo Tràng hàng phục ma quân và độ thoát tất cả chúng sinh.

Bọn chúng con tự cho rằng đã được giải thoát.

Vì lý do đó nên ngày nay chúng con thấy, nghe mà chưa được thành tựu, không phải là bậc xuất gia, chưa trở thành bậc Sa Môn.

Hôm nay Thế Tôn hiện các trí tuệ siêu tuyệt nên chúng con đã đạt được pháp trân bảo của Phật.

Đức Phật là cha, chúng con là con, cha con đồng một thể tánh, không có sai khác.

Giống như vị trưởng giả khi sắp mạng chung, ở trước đại chúng tuyên bố cùng Vua, Quan, Bà La Môn, Trưởng Giả và tất cả mọi người: Hôm nay ta đem tất cả kho tàng châu báu để ban cho con ta.

Người con nghe xong vui mừng như được điều chưa từng có.

Thế Tôn cũng như vậy, ban đầu dạy pháp tiểu thừa tạm thời làm cho chúng con được an lạc, nhưng sau cùng Ngài vì bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả Chư Thiên và loài người mà hiển bày giáo nghĩa căn bản.

Thế Tôn khéo dùng phương tiện thuyết pháp tam thừa, không hề có hai thừa, huống gì có ba?

Các vị Thanh Văn này đều sẽ thành Phật.

Chúng con vô cùng hân hoan không kể xiết.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần