Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bốn - Phẩm Ngạ Quỷ - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM BỐN

PHẨM NGẠ QUỶ  

TẬP BA  

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ biết các ngạ quỷ ấy do đời trước bị tham ái che tâm, nấu rượu lừa gạt thế gian, thêm nước hòa than, hoặc ngâm loài giun, loài ngài để làm mê hoặc người ngu, không thực hành bố thí, không tu phước đức, không giữ giới cấm, không nghe chánh pháp, không hành theo chánh pháp, lại bảo người khác làm những việc tham ác, thấy họ làm rồi thì thích thú, làm rồi không hối hận.

Do nghiệp ác ấy, sau khi qua đời, sinh trong loài ngạ quỷ ăn nước, thường bị đói khát thiêu đốt thân, buồn bã chạy đến đồng hoang, vùng hiểm nạn để tìm nước, rất khốn khổ, nhưng không được. Thân tướng quỷ ấy cứng rít, đáng ghét, giống như đất khô mặn. Thân thể lở loét, cựa thân thì bị đốt cháy, tóc dài che cả mặt mày, không thấy gì cả, luôn bị đói khát bức bách, chạy đến bên sông.

Nếu có người qua sông, nơi chỗ chân họ đi qua còn sót lại chút nước dính đất bùn thì quỷ liền chạy nhanh đến ăn để sống. Hoặc có người nào ở bên sông lấy nước cúng cho cha mẹ đã qua đời thì nó được chút phần. Nhờ nhân duyên đó mà mạng sống của quỷ được tồn tại. Nếu tự lấy nước thì bị các ngạ quỷ giữ nước dùng gậy đánh đập, lột hết da trên thân, đau đớn không chịu nổi, kêu la khóc lóc chạy trốn.

Do tạo nghiệp ác tự dối gạt, thân bị nghiệp trói buộc bất tận nên khiến không chết, nhưng mà nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan, thì vẫn chưa thoát được. Nếu nghiệp hết thì mới thoát khỏi. Ở đây qua đời, bị gió nghiệp thổi lưu chuyển trong sinh tử.

Thân người khó được, giống như con rùa trong biển tìm lỗ hổng nơi cây nổi. Nếu sinh làm người thì sinh nơi biên địa, bần cùng, khốn khổ, nơi không có cây cối, nước non để trú, thường bị khô hạn, luôn khốn khổ vì bệnh nóng, ngày đêm khát nước. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ A Xa Ca đời Ngụy dịch là ngạ quỷ Hy vọng.

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ biết các chúng sinh ấy do ganh tỵ, tham lam tự che tâm mình. Thấy người thiện được chút ít của cải, người ác kia mua bán với giá cả không theo đạo lý, lại dối gạt họ để lấy của. Làm rồi thích thú, không sinh tâm hối hận, lại bảo người khác làm việc ác như mình.

Không thực hành bố thí, không tu phước đức, không giữ giới cấm, tâm không thành tín, không thuận với chánh pháp, tánh tình thô bạo, không thể điều phục được, không gần gũi bạn lành, thường ôm lòng ganh tỵ. Người ác ấy, sau khi qua đời bị đọa vào loài ngạ quỷ Hy vọng.

Nếu người đời vì cha mẹ, tiên linh mất mà bày biện cúng tế thì ngạ quỷ này được ăn. Ngoài ra, những thức ăn khác thì không được ăn, nên luôn bị đói khát thiêu đốt lấy thân, giống như cây bị cháy, không ai cứu vớt. Sắc mặt đen sạm, nước mắt chảy ròng, tay chân đều bị rách nát, đầu tóc che trùm cả mặt, thân thể đáng ghét, giống như mây đen.

Quỷ đau đớn kêu gào thảm thiết và nói kệ:

Không thí, không quả báo

Không thí quả, cũng không

Đèn không cháy thì tối

Không thí, không quả vui.

Như người mù không mắt

Không thể thấy gì cả

Không thí cũng như vậy

Vị lai không quả vui.

Hoặc sinh đường ngạ quỷ

Làm người luôn nghèo khổ

Luân hồi chịu khổ não

Là do tâm ganh tỵ.

Không thí tức không quả

Tạo nghiệp trọn không mất

Theo nghiệp dẫn đến quả

Chúng sinh theo nghiệp ăn.

Ta bị nghiệp ác thiêu

Sinh trong loài ngạ quỷ

Bị đói khát lớn này

Lửa dữ thường thiêu đốt.

Khi nào hết đói khát?

Khi nào được an vui?

Bị khổ rất đau đớn

Khi nào thoát ra được?

Không biết đạo, phi đạo

Không biết quả nghiệp thiện

Đói khát như lửa đốt

Chịu khổ não như vậy.

Tóc rối che cả mặt

Không ai cứu giúp được

Gân hiện như lưới bọc

Mạng sống khổ vô cùng.

Buồn bã vào đồng hoang

Thường bị các khổ bức

Đơn độc không ai cứu

Chịu đủ các thống khổ.

Ngạ quỷ hy vọng rên rỉ bỏ chạy, trốn núp khắp nơi.

Tỳ Kheo quán như vậy rồi tư duy: Sinh tử luôn đốt cháy dữ dội làm cho Dục Giới tăng thêm. Ngạ quỷ ấy nếu có người nào bày biện vật phẩm cúng tế người chết thì mới được ăn để sống, chỉ được ăn thức ăn này còn các thức ăn khác thì không được ăn. Vì nghiệp ác chưa hết nên khiến không chết.

Bị khổ như vậy mà nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan thì vẫn không thoát khỏi. Nếu nghiệp ác hết, ở đây qua đời, bị gió nghiệp thổi lưu chuyển trong thế gian, thọ khổ nơi sinh tử. Thân người khó được, giống như con rùa trong biển tìm kiếm lỗ hổng nơi cây nổi. Nếu sinh làm người thì sinh trong gia đình làm công, làm đầy tớ hèn hạ, bị người đánh đập, sai khiến. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ ăn đờm.

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ biết các chúng sinh kia có người nam hay nữ bị tâm bỏn sẻn, ganh tỵ che lấp, đem thức ăn bất tịnh lừa gạt các đạo sĩ Sa Môn xuất gia, nói đó là thức ăn thanh tịnh, khiến họ tin dùng rồi lấy ăn. Hoặc có khi lấy những món không nên ăn đem bố thí cho người tịnh hạnh.

Người kia luôn làm các việc như vậy rồi còn bảo người khác làm những việc lừa dối như thế nữa. Người kia không thực hành bố thí, không giữ giới cấm, không thân cận bạn lành, không thuận theo chánh pháp, lại thích lấy vật bất tịnh đem cho người.

Sau khi qua đời, người ác kia sinh trong đường ác, làm thân ngạ quỷ Xí Trá Xí Trá, đời Ngụy dịch là ngạ quỷ ăn đờm, bị lửa đói khát thiêu đốt khắp thân, ở những chốn bất tịnh như tường vách đất đá để tìm kiếm đờm dãi của người, ăn những thứ đó để sống, còn những thức ăn khác đều không được ăn. Nếu nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan thì vẫn không thoát được. Khi nghiệp ác hết thì mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Ở đây qua đời, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển thọ khổ theo sinh tử. Nếu sinh làm người thì sinh vào nhà dọn phân, bần cùng, hạ tiện, nhiều bệnh hoạn, gầy ốm, lở loét, chảy máu, hôi hám, hoặc đi xin thức ăn còn thừa của Chúng Tăng để sống. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết rõ quả báo của nghiệp, lại quán xét Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán loài ngạ quỷ Ma la là ngạ quỷ Ăn vòng hoa.

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ biết chúng sinh kia do đời trước trộm vòng hoa của Phật và các bậc sư trưởng đáng tôn trọng. Lấy trộm hoa đó vì hoa thanh khiết, dùng để tự trang sức chứ không vì tâm ác. Do tâm của người kia tham lam, ganh tỵ, nên sau khi qua đời thì sinh nơi tháp Phật, hoặc sinh nơi tế lễ Trời và có thần lực.

Nếu người nào giận dữ hay tranh cãi, đi đến tháp cung kính tức được thuận hợp, thì quỷ có thể hiện ra các mộng ác để khủng bố mọi người. Nếu có người khác gặp các việc dữ ác mà cầu sức ân huệ của những Quỷ Thần này, thì có Dạ Xoa với oai đức và thần thông lấy vòng hoa dâng lên, nhờ dịp này mà được ăn vòng hoa, ít đói khát, không bị lửa đói khát thiêu đốt, người đời khen ngợi, quỷ thường vui vẻ.

Quỷ ăn vòng hoa ấy nếu nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan thì vẫn không thoát được. Nếu nghiệp ác hết mới được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở đây qua đời, theo nghiệp mà lưu chuyển trong thế gian thọ khổ theo sinh tử. Nếu được sinh làm người thì làm người giữ vườn bán hoa để sống. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ ăn máu để sống.

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ kia lúc xưa làm người ưa thích những thức ăn có máu thịt, tâm người ấy bỏn sẻn, ganh tỵ, vui cười tạo ác, sát sinh, ăn máu, không bố thí cho vợ con.

Người ác ấy sau khi qua đời bị đọa vào đường ác, vì ưa thích ăn máu nên sinh trong loài ngạ quỷ La ngật trá La ngật trá đời Ngụy dịch là Ăn máu. Khi thọ thân quỷ này rồi, mọi người đều gọi nó là Dạ Xoa. Người ta dùng máu bôi phết khắp để cúng tế. Ăn máu rồi quỷ còn làm cho người sợ hãi để luôn cầu tìm sự cúng tế.

Mọi người đều cho là thần linh, cứ làm như thế để được sống. Thọ mạng của quỷ lâu dài như trước đã nói trải qua năm trăm năm. ngạ quỷ ấy tạo các thứ yêu nghiệt nhưng nếu nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan thì vẫn không thoát được.

Nếu nghiệp ác hết thì mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở đây qua đời rồi theo nghiệp mà lưu chuyển trong thế gian thọ khổ theo sinh tử. Nếu được làm người thì sinh vào nhà dòng Chiênđà la, ăn nuốt thịt người. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ ăn thịt.

Vì nghiệp gì mà sinh trong loài ngạ quỷ này?

Vị ấy dùng văn tuệ biết chúng sinh này do ganh tỵ tham ác tự che lấy tâm mình. Lấy thịt của chúng sinh làm thành từng khúc rồi bằm thái, đem cân, mua bán lừa gạt, ít nói nhiều, cho dở là ngon. Người ác ấy sau khi qua đời bị đọa vào đường ác, sinh vào loài ngạ quỷ ăn thịt.

Quỷ Dạ Xoa ấy ở nơi ngã tư hoặc ngõ hẻm, bờ ruộng, chợ búa, quán xá, hoặc ở trong thành phố, chỗ Chúng Tăng, sống nơi chỗ tế Trời, hình tướng xấu ác, ai thấy đều hoảng sợ.

Nhưng quỷ ấy có thần thông, tánh mềm dịu, không làm nhiều điều ác, hành thí bất tịnh, do nhân duyên đó nên được thần thông, dùng thịt lộn xộn của các chúng sinh như bò, dê, nai… để thiết đãi cho người, do nghiệp duyên này nên có thần lực. Nhưng nếu nghiệp ác chưa hết, chưa hoại, chưa tan thì vẫn không thoát được.

Nếu nghiệp ác hết thì mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở đây qua đời, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển thọ khổ theo sinh tử. Thân người khó được, giống như con rùa trong biển tìm kiếm lỗ hổng nơi cây nổi. Nếu có chút ít nghiệp thiện thì được sinh làm người, ở nơi biên địa, thuộc hàng Chiên đàla man di ăn thịt người. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

Lại nữa, Tỳ Kheo kia biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Thế Giới của ngạ quỷ. Vị ấy dùng văn tuệ quán các ngạ quỷ ăn khói hương.

Vì nghiệp gì mà sinh vào loài ngạ quỷ ấy?

Vị ấy dùng văn tuệ biết các chúng sinh này bị tâm đố kỵ, tham ác che lấp, đi buôn bán hương, thấy người cần mua hương gấp để cúng dường, kẻ kia không lấy hương tốt đưa cho họ, mà lại đưa hương tầm thường, bán không đúng giá, tâm không có tịnh tín, nói không có báo ác, không biết Chư Phật là ruộng phước chân thật. Người ác ấy sau khi qua đời, sinh trong loài ngạ quỷ Dạ Xoa ăn khói hương nhưng có thần thông.

Thân nó đeo vòng hoa thơm, ướp hương xoa, hương bột, ca múa để tự vui, hoặc sống trong các ngả tư, miếu thần, chùa chiền, nhà cửa, núi rừng, nơi vui chơi, lầu cao đẹp đẽ. Nó đều đi đến khắp. Người ngu trong thế gian thấy nó liền cung kính lễ bái, đốt các loại hương trầm thủy… để cúng dường. Do đời trước buôn bán hương bảo người cúng dường vào ruộng phước tối thắng, nhưng không phải là ruộng tâm.

Nếu trong Phật, Pháp, Tăng mà thực hành một chút bố thí thì được quả báo lớn, giống như cây Ni Câu Đà, hạt rất nhỏ nhưng nếu trồng vào đất tốt thì thành cây rất cao lớn, cành lá sum suê. Nếu trong ruộng phước Phật, Pháp, Tăng có người hành bố thí thì được quả báo lớn. Cũng vậy, do sức lực của ruộng phước nên Dạ Xoa ấy có thần lực và được quả báo an vui, thoát ra khỏi Thế Giới quỷ.

Ở đây qua đời rồi thì tùy theo nghiệp là lưu chuyển, thọ khổ theo sinh tử. Thân người khó được, giống như con rùa trong biển tìm kiếm lỗ hổng nơi cây nổi. Nếu được làm người thì sinh vào nhà bần cùng, thân người ấy có mùi thơm giống như xoa ướp hương thơm. Do nghiệp ác còn sót lại nên chịu quả báo như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần