Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Ba Mươi Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM QUÁN THIÊN

DẠ MA THIÊN  

TẬP BA MƯƠI SÁU  

Lại nữa, nơi Cõi Trời Dạ Ma, Chư Thiên ở Sơn Thọ Cụ Túc lại lần lượt thấy các chỗ khác trên vách Tháp có cảnh Trời Tứ Thiên Vương thoái đọa làm các loài súc sinh ở đủ các nơi.

Tóm lại mà nói, họ sinh ở ba nơi là: Nước, mặt đất và hư không.

Chúng sinh sinh dưới nước ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ não lớn, hoặc chịu khổ lạnh, hoặc chịu khổ nóng. Chúng sinh trên đất bị mặt trời thiêu đốt chịu khổ não lớn, bị đói khát bức bách thân, giết hại lẫn nhau, hoặc sợ bị trói buộc, chịu trăm ngàn loại khổ não không thể thoát. súc sinh này bị gió nghiệp thổi, thọ các khổ não. Chúng sinh trên không hoặc tế hoặc thô, hoặc chim có thân lớn thường thích giết nhau, thọ vô số khổ não.

Sau khi thoái đọa, Chư Thiên ấy sinh trong súc sinh là do bị phóng dật lừa dối. Vị Thiên khác nếu không phóng dật thì tạo nghiệp thiện thù thắng. Người tu phước, từ trên Trời thoái đọa xuống, sinh trong loài người, nhận quả báo theo nghiệp thiện của mình.

Nếu không có nghiệp lành mà sinh trong loài người sẽ chịu khổ não theo sự tạo tác của mình, gồm có các bậc thượng, trung, hạ, có nghèo, có giàu, tùy nơi, tùy lúc màu sắc hoặc xấu hoặc đẹp, hoặc hay hoặc dở… đều thấy hiện trong Tháp Phật ấy.

Nếu có nghiệp lành thích tu, thích làm, hoặc là giữ giới, tu tám Thánh đạo, giữ giới một cách vững chắc không vi phạm, không rò rỉ, khéo điều phục tâm ý, nhờ sức mạnh của ba nghiệp và uy lực của nghiệp lành vị ấy chắc chắn được hưởng quả báo tốt đẹp.

Hoặc nhờ sức mạnh của quy y Tam Bảo, hoặc nhờ oai lực của việc bố thí vô úy cho chúng sinh, hoặc bố thí pháp, hoặc làm các việc tương tự khác, làm các việc lành, tư duy thường xuyên về pháp trong sạch khiến tâm vắng lặng. Kế đó là tu khẩu nghiệp khiến tâm trong sạch, can ngăn, khích lệ cha mẹ tu thí, giới, trí.

Do tự thân đã có sức của nghiệp thiện nên có thể khuyến khích cha mẹ, hoặc nhờ sức bố thí, hoặc bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, hoặc đem thức ăn, nước uống cho người bệnh, hoặc đem thuốc và các vật cần dùng cho người bệnh không có thầy thuốc, hoặc nhờ không sát sinh.

Hoặc không trộm cắp, hoặc không tà dâm, không uống rượu, hoặc với tâm thiện đào giếng hay ao nước nơi đồng vắng xa xôi hiểm trở và bố thí các vật cần dùng, hoặc do nghiệp lực cúng dường Phật, Pháp, Tăng, hoặc do nghiệp lành chắp tay lễ bái.

Hoặc bố thí vô úy cho người ở đất nước bị nhiều kẻ quấy nhiễu, ở nơi nhiều người sợ hãi, người sợ đồng vắng nguy hiểm, hoặc người sợ đao, hoặc là nhờ nghiệp bố thí giường nằm, ngọa cụ, thuốc trị bệnh và đồ dùng cho các bậc Duyên Giác, A La Hán, hoặc là bảo vệ ban vui cho vợ con, hoặc vào năm đói kém bố thí đồ ăn thức uống cho người đói.

Nghiệp này là tối thiện vào bậc nhất, có thể thành tựu như nguyện cho đến Niết Bàn, ba loại Bồ Đề, huống gì là sinh Thiên.

Ở Cõi Trời thoái đọa, sinh lại Cõi Trời, thấy trở lại sự hoạt động của Cõi Trời. Vị ấy thấy như vậy ở vách Tháp Phật. Trong Cõi Trời ấy có đủ loại lưới nghiệp, vô lượng nhân duyên, dây nghiệp trói lấy vô lượng chúng sinh. Dây ấy giăng khắp trong nẻo sinh tử, giữ lấy các loài.

Bấy giờ trên vách Tháp Phật, Thiên Chúng Cõi Trời Dạ Ma ấy thấy Trời Tứ Thiên Vương có vô lượng sự thoái thất chịu khổ não lớn như Đức Thế Tôn Ca Na Ca Mâu Ni đã hóa hiện.

Lại quan sát Trời Tam Thập Tam. Nơi vách Tháp Phật, ta đã thấy sự khổ của Trời Tứ Thiên Vương, kế đó lại nghĩ xem Trời Tam Thập Tam có như vậy không?

Trên vách trong sạch ở nơi khác của Tháp Phật, Chư Thiên ở Cõi Trời Dạ Ma thấy Đức Thế Tôn hóa hiện sự thật về sinh tử của thế gian. Họ bị xiềng xích nghiệp trói buộc nên hoặc khổ hoặc vui.

Kế đó, thấy Trời Tam Thập Tam cũng như vậy, thọ vui theo nghiệp, sống theo nghiệp, hoặc là nghiệp lành, hoặc là nghiệp dữ. Vị Thiên ấy thọ vui, thọ khổ như nghiệp, hoặc đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc Trời, hoặc người đủ loại sai khác, bị vô lượng dây nghiệp trói buộc.

Lại nữa, khi Thiên Chúng ở Cõi Trời Tam Thập Tam phải trôi lăn trong các nẻo sinh tử, họ bị gió nghiệp thổi, ở trong ba cõi không có chỗ nào thọ nghiệp mà không nhận quả báo, huống gì là Cõi Trời Tam Thập Tam.

Nơi vách Tháp trong sạch ấy lại thấy năm đường do nghiệp tạo ra, bị nghiệp trói buộc.

Về sau, lại vào bảy địa ngục lớn là: Địa ngục Dây đen, địa ngục Hợp, địa ngục Kêu gào, địa ngục Kêu gào lớn, địa ngục Nóng, địa ngục Rất nóng chỉ trừ địa ngục lớn nhất là A Tỳ.

Vì sao?

Vì ở Cõi Trời không tạo nghiệp để bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Chư Thiên chỉ sinh vào trong bảy địa ngục lớn kia. Sau khi thoái đọa, Chư Thiên ở Trời Tam Thập Tam sinh vào địa ngục, hoặc là do sát sinh, hoặc do nghiệp khác.

Lúc Chư Thiên đánh nhau với A Tu La, liền bị mắc tội sát sinh.

Cả hai Cõi Trời: Tứ Thiên Vương và Tam Thập Tam đều mắc tội sát sinh, trộm cắp. Bốn Cõi Trời trên nữa thì không có như vậy. Trời Tứ Thiên Vương và Trời Tam Thập Tam đều tạo nghiệp như thế. Nghiệp của Trời Tam Thập Tam vi tế, các Trời khác không như vậy. Thiên Chúng ở nơi vùng cây rậm rạp thấy nghiệp vi tế và sự thoái thất của Trời Tam Thập Tam ở nơi vách Tháp Phật.

Trong vườn Hoan hỷ của Trời Tam Thập Tam có cây Ba Lê Da chiếu ánh sáng khắp khu vườn, nơi điện đường nơi cây ấy, Chư Thiên thọ hưởng đủ loại hoan lạc. Do nghiệp hết, bị lưới không biết đủ trói nên rơi vào địa ngục. Nỗi khổ mà Trời Tam Thập Tam phải chịu khi đọa vào địa ngục lớn gấp mười lần nỗi khổ của Trời Tứ Thiên Vương.

Vì sao?

Vì Cõi Trời nào có cái vui lớn thì nỗi khổ về biệt ly cũng lớn hơn, nên hết sức khổ sở, lưu chuyển nối tiếp do nghiệp tăng lên rất mạnh mẽ. Như trong thân Trời, tất cả các phần của thân đều mềm mại, do mắt chuyển động mềm mại nên mắt chịu khổ não cũng nhiều hơn.

Như vậy, ở nơi ấy lạc thú của Trời Tam Thập Tam hơn hẳn lạc thú ở Cõi Trời Tứ Thiên Vương, nên khi thoái thất, sự khổ não của Trời Tam Thập Tam cũng lớn hơn. Tâm khổ não lớn, tâm khổ não nhiều, hai loại khổ vui rất nhiều, không thể ví dụ.

Trên Trời rất vui, dưới địa ngục rất khổ, dây nghiệp trói buộc như rớt từ bờ hiểm, khiến họ thọ vô lượng loại khổ não rất lớn. Thiên Chúng Trời Dạ Ma đã thấy sự thoái đọa của Trời Tam Thập Tam phóng dật ở nơi vách Tháp Phật. Thấy rồi, Thiên Chúng Trời Dạ Ma ấy buồn rầu.

Lại nữa, nơi vách ở chỗ khác trong Tháp Phật, Trời Dạ Ma thấy sau khi thoái đọa, Trời Tam Thập Tam đọa làm ngạ quỷ. Từ nơi rừng Hoan hỷ, rừng ánh sáng, nơi cung điện nguy nga, nơi vui chơi, họ thọ dục lạc Cõi Trời, ăn thức ăn thơm ngon của Cõi Trời, cung cấp đầy đủ cho thân thọ dục lạc trọn vẹn.

Thọ hưởng cái vui thù thắng như vậy một thời gian dài rồi phải ăn phân và nước tiểu bất tịnh, khắp thân thể có các con trùng bất tịnh. Như vậy, họ quán thấy: Do sống phóng dật, Chư Thiên Cõi Trời Tam Thập Tam bị đọa trong ngạ quỷ. Thấy vậy rồi, Chư Thiên ở Cõi Trời Dạ Ma rất buồn rầu.

Lại nữa, nơi vách ở chỗ khác trong Tháp Phật, Trời Dạ Ma thấy Trời Tam Thập Tam sinh làm súc sinh, sau khi bị thoái đọa, hoặc là ở trong biển lớn làm cá di nê, làm con ốc, cá ma già la, cá thư ma la, sinh làm loài trùng dữ giết hại lẫn nhau, bị đói khát bức bách thân, chịu vô lượng khổ, hoặc ở trên không làm loài chim giết hại lẫn nhau, thường sợ hãi, tâm luôn sợ chết, chịu các khổ não, hoặc ở gần bờ nước làm các loại thú ăn thịt lẫn nhau, chịu các khổ não.

Như đã nói, do nghiệp lành, Trời Tứ Thiên Vương sinh làm người. Lần lượt như vậy, do nghiệp thiện, Trời Tam Thập Tam sinh làm người, đồng nghiệp với nhau, chịu các khổ não, bị sinh tử trói buộc.

Lúc Chư Thiên thoái đọa, sẽ chịu vô lượng loại khổ não của Cõi Trời. Nỗi khổ này còn không thể chịu nỗi, huống gì là nỗi khổ phải chịu khi ở trong thai người, nỗi khổ lúc sắp xuất thai ở thế gian, nỗi khổ lúc làm đứa bé sơ sinh, nỗi khổ lúc ra khỏi thai chưa thể đi được, lăn lóc trên đất, nỗi khổ lúc bò lổm ngổm, nỗi khổ vì thân thể không có sức lực, việc cần làm không làm được, ngu si la khóc không biết gì cả.

Các loại khổ não đủ dạng như vậy, không thể nói hết. Tất cả Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc việc đó trên vách Tháp Phật như thấy trong gương.

Các ngạ quỷ đói khát kia lệ thuộc vào người khác, không được tự tại, chịu lạnh, chịu nóng, bị gió thổi, bị Mặt Trời thiêu đốt, đi khắp nơi, ở đồng trống vắng. Các nỗi khổ như vậy có vô lượng loại, họ đều chịu đầy đủ, không thể nói hết. Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc đã thấy điều đó nơi vách Tháp Phật. Thấy như vậy rồi, việc sinh tử ở thế gian có các loại khổ não gồm vô lượng loại đã được thấy trong vách ấy như bức họa thiện xảo.

Thấy điều hiếm có rồi, Chư Thiên sinh tâm nhàm chán, suy nghĩ: Chư Thiên hơn con người, con đường tốt nhất của loài người là Cõi Trời. Con đường tốt nhất của Chư Thiên là cõi người. Lúc người sắp chết thì nguyện sinh Thiên. Lúc Chư Thiên sắp thoái đọa thì nguyện sinh làm người.

Con người thích Cõi Trời, Chư Thiên thích cõi người. Sinh trong hai đường nhân, thiên này còn chịu khổ não như vậy, huống gì là sinh trong các đường ác khác, bị nghiệp chi phối.

Lại nữa, Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc thấy trên vách ở nơi khác trong Tháp có Trời Tam Thập Tam với Thiện pháp đường.

Thoái đọa khỏi Cõi Trời ấy, sinh trong năm đường tùy theo nghiệp lực. Như đã nói ở trước, do nghiệp, vị Trời thoái đọa ấy nếu thoái đọa khỏi Cõi Trời, sinh lại Cõi Trời cũng không hết khổ. Biết rằng sẽ bỏ mất thân Trời cũ do ái biệt ly nên sinh ra sự sợ hãi. Sợ hãi về sự thoái thất ấy có rất nhiều cái khổ khác nhau, vị Trời ấy đã thấy vô lượng khổ não.

Kế đó, lại quan sát trên vách ở chỗ khác trong Tháp Phật, thấy Trời Đế Thích bị thoái đọa khỏi Cõi Trời đó phải xả bỏ tất cả các thứ như: Vòng hoa báu, thiên y xinh đẹp có đủ loại ánh sáng, đồ trang sức có màu vàng rực, có ánh sáng thù thắng không thể ví dụ, sự đầy đủ các dục lạc thù thắng và sự đầy đủ năm dục.

Do nghiệp của mình dẫn dắt nên đường ác mở cửa, bị phóng dật sai khiến, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do nghiệp đã tạo ra, hoặc là nghiệp thiện, hoặc là nghiệp ác dẫn dắt nên thoái đọa như vậy. Trên vách báu trong Tháp Phật cho thấy có ba mươi hai vị Đế Thích đã lần lượt bị thoái đọa trong quá khứ.

Đế Thích đầu tiên tên là Yêm Thư Ma, đã làm Vua Trời Tam Thập Tam, do hết phước sinh vào trong biển làm cá có thân lớn là Ma Già La. Khi làm người, vị ấy làm nghề đánh cá, thường bắt nhiều cá và cũng thường lễ Phật. Do lễ Phật nên được sinh vào Trời Tam Thập Tam làm Đế Thích. Do sát sinh nên làm cá ở trong biển. Do nghiệp còn sót lại nên sinh làm súc sinh.

Lại nữa, trên vách ở nơi khác của Tháp Phật, Thiên Chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối lại thấy Đế Thích thứ hai tên là Tam Phù Đề.

Khi làm người, vị ấy đã từng làm việc thiện là: Cho người bệnh ăn, hoặc cho Tỳ Kheo ăn với tâm thanh tịnh. Do nhân duyên đó, vị ấy được sinh lên Cõi Trời Tam Thập Tam, làm Vua Đế Thích.

Về sau hết phước, do nghiệp ác còn lại, phải làm con rắn mối. Người ấy vào đời trước, do tâm tà kiến giết rắn mối trong ngày trai giới của ngoại đạo. Do nhân duyên đó, người ấy sinh trong địa ngục. Khi ra khỏi địa ngục, do nghiệp còn sót lại, người ấy làm rắn mối.

Trên vách ở nơi khác trong Tháp Phật, Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc của Trời Dạ Ma lại thấy Đế Thích thứ ba tên là Ba La Ca Xa, đã thọ hưởng hết thú vui của Cõi Trời và sắp thoái đọa. Lúc làm người, vị ấy đã nuôi dưỡng cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi họ ốm đau. Do nhân duyên đó, vị ấy được sinh làm Vua Đế Thích ở Cõi Trời Tam Thập Tam.

Do nghiệp hết, từ Cõi Trời ấy thoái đọa, vị ấy sinh làm ngạ quỷ. Trong thời quá khứ, vị ấy sinh ở chỗ khác, vào lúc mất mùa đói kém, vị ấy tích trữ nhiều lúa và đem bán mắc cho người, lừa dối họ. Vị ấy mong cầu về sau sẽ mất mùa, đói kém hơn, do nhân duyên này, vị ấy sinh vào địa ngục Hắc thằng. Vì nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh làm ngạ quỷ có cổ họng như lỗ kim.

Lại nữa, Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc, thấy trên vách ở nơi khác trong Tháp Phật có vô lượng loại sinh tử khổ não nên sinh tâm chán ngán.

Thấy vô lượng loại như vậy rồi, họ lại thấy vị Đế Thích thứ tư tên là Tác Ái. Sau khi thoái đọa khỏi Cõi Trời, vị này sinh làm heo.

Thấy rồi, họ quán xem nghiệp lành của vị ấy, do nhân duyên gì mà được làm Đế Thích?

Vào đời trước, vị ấy đem thuốc cho những người Bà La Môn tà kiến bệnh nặng sắp chết uống và bảo họ với tâm thương xót: Xin hãy uống thuốc này! Do nghiệp ấy, vị đó sinh vào đường lành, là Cõi Trời Tam Thập Tam và làm Đế Thích. Khi nghiệp lành hết, vị ấy đọa vào địa ngục. Khi ra khỏi địa ngục, do nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh làm heo.

Thiên chúng lại quán nghiệp quả này do nhân duyên gì vị ấy lại sinh làm heo?

Đời trước, vị ấy thường thích săn bắn, giết hại nhiều chúng sinh, hoặc giết nhiều nai, hoặc giết nhiều heo. Do nghiệp này, khi chết sinh vào địa ngục Hoạt. Khi hết nghiệp này, do nghiệp còn sót lại, thọ sinh làm heo.

Trên vách ở nơi khác trong Tháp Phật, Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc ở Cõi Trời Dạ Ma lại thấy vị Đế Thích thứ năm tên là Thiện Ý.

Do nghiệp gì vị ấy sinh làm Vua Đế Thích?

Đời trước, vị ấy cứu sống người sắp bị sư tử ăn thịt. Với tâm thương xót, vị ấy đem người kia về nhà nuôi dưỡng nhiều ngày. Do nhân duyên này, nên vị ấy sinh lên Cõi Trời Tam Thập Tam, làm Vua Đế Thích tên là Thiện Ý. Sau khi thoái đọa, vị ấy sinh trong địa ngục Thiêu đốt.

Vì sao vị ấy sinh trong địa ngục đó?

Vì đời trước vị ấy nói láo nên bị đọa vào địa ngục này.

Khi Đế Thích Thiện Ý thoái đọa khỏi Cõi Trời rồi, lại có Đế Thích kế tiếp tên Kiều Thi Ca. Thiên Chúng ở Sơn Thọ Cụ Túc nơi Cõi Trời Dạ Ma thấy vị ấy trên vách ở nơi khác trong Tháp Phật.

Vị ấy có nghiệp gì mà được làm Đế Thích?

Đời trước vị ấy là một Bà La Môn giàu có, nhiều của cải. Vị ấy thiết lập trai hội ở nơi sang trọng, cúng dường đồ ăn, thức uống và tài vật cho những người đáng tôn trọng. Do nghiệp này, vị ấy được làm Vua Đế Thích tên là Kiều Thi Ca. Mặt khác, do trước kia vị ấy đã tạo vô lượng phước đức nên làm Đế Thích là Kiều Thi Ca.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần