Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Tám - Phân Biệt Hành Tướng - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH CON ĐƯỜNG TU HÀNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM TÁM
PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG
TẬP MỘT
Tự làm mất châu báu
Rơi vào nước biển lớn
Nhanh chóng cầm dụng cụ
Lặn xuống tìm lại nó.
Siêng năng chẳng kể mệt
Giữ tâm không lay chuyển
Thần biển thấy như vậy
Liền lấy ngọc trở lại.
Vừa khởi phương tiện này
Chấm dứt ý Thiên Vương
Vượt đến núi báu lớn
Chẳng cho là mệt nhọc.
Rốt ráo vốn là không
Đảnh lễ Đấng Vô Trước
Ý nguyện không lay chuyển
Quy mạng Đấng Tối Thắng.
Như Long Vương cuộn khúc
Ngồi thiền cũng như thế
Cầu đạo dùng tinh tấn
Khởi đại lực thành Phật.
Hành trình trong bảy ngày
Nhẫn hóa được nữ nhân
Đảnh lễ Đấng Chí Tôn
Thấy tin chẳng lay chuyển.
Người tu hành, nếu tâm tự nghĩ ở trong sinh tử chẳng thể tính đếm, quen thói dâm, nộ, si đến nay quá lâu, mạng người đã ngắn mà lại còn lười biếng thì đâu có thể trong một đời trừ hết tội lỗi.
Nếu có ý nghĩ ấy, thì nên quán chiếu như sau: Ví như ngôi nhà cũ không có người ở, trải qua nhiều năm tăm tối, chẳng đèn đuốc, nhưng đem lửa vào thì bóng tối tiêu hết. Tuy là lâu ngày quen theo trần cấu, các độc nhưng vì có trí tuệ nên các thứ tội lỗi đều được tiêu trừ.
Vì sao?
Vì sức của trí tuệ mạnh mẽ, ngu si yếu đuối.
Bài tụng rằng:
Muốn cầu đạo nghĩa chớ biếng lười
Để được pháp lợi, lìa suy hao
Nương trí tuệ quang minh của Phật
Vĩnh viễn trừ hết dâm, nộ, si.
Ai có thể phụng hành theo đạo này như thế?
Chỉ có người tin, siêng năng, trí tuệ. Không dối trá, có ý chí mới có thể làm theo được.
Thế nào gọi là tin?
Thấy, biết vạn vật chung quy đều vô thường. Những cái mà thân thọ nhận đều là khổ. Ba cõi là không. Tất cả các pháp đều vô ngã. Người hiểu biết như vậy thì gọi là tin.
Bài tụng rằng:
Người tu hành trì đạo
Nghĩ biết đời chẳng an
Vạn vật đều vô thường
Thân thọ đều là khổ.
Ba cõi thảy là không
Tất cả pháp vô ngã
Nắm vững những điều đó
Thì được gọi là tin.
Nếu khởi tưởng có ta
Gọi là người điên đảo
Thấu rõ tất cả không
Nên biết đó là Phật.
Người hiểu rõ như thế
Đạt được đạo cam lồ
Không gì làm lay động
Đây mới gọi là tin.
Với người tu hành, thế nào gọi là tinh tấn?
Nếu người tu hành tinh chuyên quán về không, vô ngã, tâm chẳng rời bỏ, thì gọi là tinh tấn.
Giả như lửa cháy gần đến chỗ ngồi, đốt cháy y phục và đầu, mắt, tâm, nên nghĩ: Lửa đốt cháy đầu ta, đốt thẳng vào xương thịt da, khiến thân ta chết, nhưng quyết không xả bỏ nẻo hành trì.
Vì sao?
Vì tuy thân ta bị thiêu đốt, nhưng chẳng đủ để so với ngọn lửa dâm, nộ, si nằm trong thân tướng này, xoay vần theo sinh tử nơi ba đường ác, thiêu đốt thân ta cho đến nay, trải qua vô số đời. Chưa đạt đến chỗ cứu cánh nơi đạo đức thì tuy bị đốt cháy một thân, chẳng đủ để tự cứu độ, chỉ nên nỗ lực dập tắt ngọn lửa dâm, nộ, si.
Đã được diệt độ rồi thì chẳng còn thoái lui nữa. Đã không có thân thì không có các họa hoạn của lửa trong ngoài, dâm, nộ, si ấy chẳng thể dễ diệt. Ví như dùng bùi nhùi mà muốn làm chảy đồng sắt thì chẳng bao giờ có thể được. Giữ tâm kiên cường, bằng tất cả phương tiện mới có thể trừ hết bệnh dâm, nộ, si.
Bài tụng rằng:
Người tinh chuyên tu trì đạo đức
Nên ngay lúc ấy chớ tiếc thân
Ví như có voi rửa thân hình
Tắm rửa vừa sạch, lại nằm đất.
Giả sử nạn gấp đã đến nơi
Sấm sét chớp lòe chẳng kinh sợ
Ví như hoa héo người chẳng tiếc
Vứt bỏ phiền não cũng như thế.
Với người tu hành, thế nào gọi là trí tuệ?
Hiểu rõ khi hành thiền định, biết khi nên quán chiếu, biết khi quán sát tuệ, biết khi thọ pháp, biết khi trụ định, cũng biết khi ra khỏi định chậm hay nhanh. Phân biệt tâm mình có thiện ác. Ví như lương y biết bệnh ở trong người, nên kiềm chế tâm, chớ để phóng túng. Ví như con voi mạnh khỏe sắp rơi xuống rãnh, giếng, người giữ voi phải ngăn lại không cho rơi vào.
Người tu hành kiềm chế, cắt đứt sự vướng mắc ngoại duyên cũng phải như vậy, biết tâm là do duyên các tưởng mà hợp thành. Ví như người sáng mắt biết thức ăn dễ dàng.
Lại như viên tể tướng biết ý nhà Vua thích gì và không thích gì. Biết rõ phương tiện, tất cả chỗ tiến lên và dừng lại trên đường hướng đến giải thoát. Giống như người thợ vàng phân biệt vàng tốt hay xấu. Nếu người hành đạo rời bỏ minh trí, chẳng tỏ hướng đi, ôm lòng sợ sệt, cho phải là quấy, cho quấy là phải, thì chẳng thành tựu trí tuệ.
Người hành đạo ấy, dù đắc bậc Thiền thứ nhất, đến bậc Thiền thứ hai, thì cũng tự sợ hãi cho là mất thiền, chẳng biết là sự khởi chuyển tịch tĩnh, tâm nghĩ: Ôi! Ta mê lầm! Vốn có hiện tượng tốt đẹp mà nay lại mất đi, tâm liền thoái chuyển. Trong niềm hoan hỷ của thiền diệt mà lìa định ý thì tự giới hạn tâm, chẳng tiến bộ được. Hoài nghi như thế thì mất thiền, cho thành là bất thành, cho bất thành là thành.
Thế nào là hiểu rõ ý thiền định?
Chuyên tâm vững chí vào bậc Thiền thứ nhất, tâm ở định diệt tận. Vừa khởi hạnh ấy, vào bậc Thiền thứ hai. Sở dĩ người mê từ lâu tập quen thói tục vì chưa biết chánh đế và các lậu tận.
Vì chẳng thấu đạt chánh đế, nên tâm chí còn ở nơi lậu, hoặc cầu bậc Thiền thứ hai mà không thể chế ngự tâm thì chẳng đầy đủ thiền. Vì vậy hành giả nên biết điều sai lầm ấy. Nếu hành giả sáng suốt chẳng khởi mê lầm ấy thì chẳng mất thiền. Đây gọi là trí tuệ.
Bài tụng rằng:
Giả sử hiểu rõ thân, các pháp
Thì biết đúng đường về của ý
Phương tiện ngăn chế tâm giong ruổi
Ví như móc sắt điều voi trắng.
Có người sáng suốt rõ định ý
Phân biệt tịch quán cũng như vậy
Thường dùng trí tuệ không do dự
Trụ nơi đạo đức thuận giáo pháp.
Với người hành đạo, thế nào là chẳng tà vạy?
Đó là chẳng dua nịnh, tâm ngay thẳng, chuyên tinh hành đạo, vun bồi lòng tin, giữ sự thành thật, dù ở trong dòng biến chuyển nhưng chẳng bị chuyển biến.
Có những việc phiền não chẳng thể giải tỏa, thì nên hướng về Pháp Sư trình bày điều lầm lỗi vướng mắc của mình. Ví như người bệnh có nỗi khổ của bệnh tật thì sẽ thành thật trình bày với thầy thuốc. Pháp Sư quán xét ý chí của hành giả, rồi tùy theo sự thiếu sót của người ấy mà giảng nói pháp.
Bài tụng rằng:
Hành giả luôn ngay thẳng
Giữ tâm không dua nịnh
Vâng theo Pháp sư dạy
Dứt các bẩn trần lao.
An ổn được thanh tịnh
Chuyên tinh siêng tu đạo
Phụng hành lời Phật dạy
Quyết hành trì đúng pháp.
Gia sử hành giả tình dục bức bách, thì vì họ mà nói pháp bất tịnh về thân người, có ba bậc:
1. Xương của thân giống như các bộ phận của xích sắt chống đỡ liền nhau.
2. Vừa thọ giáo pháp, liền quán xương đầu.
3. Đã rõ phép quán ấy, lại quán sát trên trán, buộc tâm ở đầu.
Giả sử người nhiều sân giận thì vì họ nói về lòng từ.
Lòng từ có bốn bậc:
1. Cha mẹ, bà con.
2. Người trung gian không thân quá và không sơ quá.
3. Chung cả mọi người.
4. Để được hạnh này, nên trang trải lòng từ bình đẳng.
Thủ hộ oan gia với đầy đủ lòng từ thì trừ được chín sự bực bội cùng sự sân giận. Rõ được nghĩa này thì tuy có sự khắn khít nhưng cũng rồi xa.
Chín sự bực bội khiến người nổi sân là gì?
1. Tâm sự nghĩ rằng người này vốn đã từng xâm phạm, chống đối ta.
2. Người này về sau sẽ xâm phạm, chống đối ta.
3. Hiện đang khinh dễ ta.
4. Trong thời quá khứ đã chống đối bạn bè ta.
5. Về sau sẽ xâm phạm bạn bè ta.
6. Hiện tại khinh dễ bạn bè ta.
7. Người ấy khi trước kính trọng oan gia của ta.
8. Sau này sẽ lại kính trọng như thế nữa.
9. Hiện nay lại đang kính trọng.
Tuy có tâm lý ấy nhưng đều nên xả bỏ.
Cái gì có thể khiến người không xâm phạm đến thân mình?
Chỉ nên tự giữ mình đừng xâm phạm đến người khác mà thôi. Nếu bị xâm phạm là sự báo ứng của tội bất thiện từ đời trước của ta, đến nay phải chịu quả ác. Bạn bè của ta vốn cũng có tội, cho nên đến nay phải chịu họa hoạn. Và oan gia của ta vốn cùng với người kia, đời trước là bà con, lại có phước đức khiến người ấy kính trọng, thì với ba bậc quán, chín sự bực bội, không đủ để ôm hận.
Sao gọi là hoạnh sân?
Chưa từng gặp nhau, vừa thấy liền nổi sân, khi ấy nên suy nghĩ: Người này chưa từng xâm phạm hay chống đối ta, nay cũng không có lỗi, lại chẳng có gì sơ suất thì cớ sao nhìn họ bằng ác cảm?
Người nào vô cớ khởi tâm ác với người khác thì trở lại tự thọ tội. Giống như ngược gió tung bụi, lại dơ thân vậy. Người tu hành, nếu chẳng thể diệt trừ sân hận, khiến chẳng khởi lên, thì những người ấy chẳng vào được đạo phẩm. Như chén nước đầy chẳng thể bưng đi xa.
Người có khả năng kiềm chế sân hận như nước tưới lửa, thì không hại gì. Thế nên, người tu hành vào luật đạo lấy đó mà noi theo, nên tuy gặp khổ não, đao, cưa xẻ thân cũng chớ khởi sân hận, như đốt cây khô, không có tâm hận, huống là sân hận đối với người vô tội.
Bài tụng rằng:
Quán khắp cả thân mình
Với người oán không khác
Vứt bỏ chín loại bực
Lập chí chẳng hoạnh sân.
Chế tâm, chẳng ôm hận
Như cây khô, không sân
Người trên đường tu hành
Như vậy, không tội lỗi.
Người tu hành, nếu nhiều ngu si thì nên quán chiếu mười hai nhân duyên, phân biệt rõ ràng. Do nhân duyên sinh mà có lão tử. Nếu chẳng có sinh thì không có khởi đầu, kết thúc.
Bài tụng rằng:
Chẳng si thì không sinh
Đã trừ hoạn lão tử
Vốn không có khởi đầu
Thì do đâu kết thúc?
Vì do sáu tình khởi
Loạn động dẫn đến si
Do si có ràng buộc
Trở thành ngu, tối, si.
Người tu hành, nếu có nhiều tạp tưởng thì vì họ mà nói rõ cách đếm hơi thở ra vào. Hơi thở đã định thì ý vắng lặng, vô cầu.
Bài tụng rằng:
Sổ tức, cầu chỉ và tương tùy
Quán thấy Chánh đế, tâm liền dừng
Muốn tịnh bản tánh theo như vậy
Ngồi yên loạn tưởng hành chẳng thành.
Người tu hành, nếu nhiều kiêu mạn thì vì họ mà nói nghĩa này: Người có ba loại kiêu mạn:
1. Cho ta không bằng người kia.
2. Người kia bằng ta.
3. Ta hơn người kia.
Người có ý nghĩ ấy là đã ôm lòng tự đại, nên khởi quán sát này: Trong bãi tha ma ở ngoài thành xương, tủy, đầu, thân vứt bỏ lộn xộn khắp các nơi, không còn huyết mạch, da thịt tiêu mất.
Nên đến quán xét nơi này: Sự giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, lớn nhỏ, đẹp xấu, toàn là xương khô như nhau có gì khác đâu! Từ khi sinh cho đến lúc mạng chung, da bao bọc thịt, máu thấm, gân buộc, y phục che thân, hương hoa, anh lạc trang sức.
Ví như làn gió huyễn hóa khéo nêu bày, lại do tâm, ý thức xoay vần mà vận hành, đến như thành quách, quốc ấp, làng xóm, ra, vào, tiến, thoái… khởi quán như vậy rồi không còn kiêu mạn. Người vốn không quán chiếu thì thấy trong gò mả và tất cả mọi người đều bình thường, không có gì khác lạ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Bảy - Kinh Giả Tiếng Uyên ương
LỜI PHẬT DẠY VỀ NGÀY LÀNH THÁNG TỐT
Phật Thuyết Kinh Ba Pháp Quán Bảy Xứ - Kinh Số Hai Mươi Mốt
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tỉnh Ngủ
Phật Thuyết Kinh Thập địa - Phẩm Ba - Phẩm địa Phát Quang
Phật Thuyết Kinh A Súc Phật Quốc - Phẩm Hai - Phẩm Sự Hỷ Lạc Toàn Thiện Của Cõi Phật A Súc