Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Ba - Pháp Vẽ Tượng Nhất Thiết Phật đảnh - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN BA
PHÁP VẼ TƯỢNG
NHẤT THIẾT PHẬT ĐẢNH
TẬP MỘT
Tượng Nhất Thiết Phật Đảnh.
Sarva boddhoṣṇīṣa toàn thân màu vàng có ánh sáng đỏ, chính giữa ánh sáng ấy: Dài, ngắn tuôn ra năm hạt giống lửa màu xanh, mặc quần mỏng màu đỏ, lồng chéo bàn chân, bắp chân, khoác áo cà sa vàng rồi làm áo lót màu xanh, rũ hai đầu gối, ngồi trên hoa sen trăm báu.
Trên hoa sen ấy, để riêng cái ghế báu vuông vức, cái ghế ấy có hai chân màu đỏ, dạng như đất này. Trung Hoa lễ hình bàn chân ngồi xổm ngay trên hoa sen.
Trên ấy rải bày đất màu xanh, hai gian nhỏ của đất xanh ấy đều an cái đài báu màu đỏ, trang trọng dùng phấn, dây đai, vòng hoa, gấm báu xen kẽ nghiêm sức. Trên cái đài đều để một con sư tử chầu ở giữa hai gian nhỏ, đầu đội hoa báu nâng đỡ tòa Phật.
Tượng ấy có tay phải đem ngón trỏ, ngón cái cũng vịn làm cái lỗ hổng, bung tán dựng ba ngón, lòng bàn tay hướng về phía trước. Tay trái đem ngón trỏ phụ bên lỗ hổng của ngón cái phải. Ngón cái gần như dạng tự vịn nhau. Co ngón giữa, ngón vô danh ngay trong lòng bàn tay. Ngón út cũng dựng dính lòng bàn tay phải.
Lưng Tượng ấy dựa vào cái gối thêu báu trang trọng. Bên trái bên phải Tượng có gian nhỏ, đều có một vị Bồ Tát, toàn thân màu vàng, đầu đội mão, Anh Lạc có ánh sáng màu xanh.
Tướng hào quang của Bồ Tát Thị Giả. Bodhisattvānte vāsin ở hai gian nhỏ của Tượng ấy với Kim Cang Thị Giả. Vajrānte vāsin đều đồng màu xanh.
Bồ Tát Thị Giả ở gian nhỏ bên trái có tay phải co cánh tay cầm cây phất trắng, tay trái đưa xuống hơi co ngay trên đùi, tay cầm hoa sen xanh.
Dùng lụa hoa màu xanh trải rộng trên eo, háng. Dùng dây tơ báu cột buộc eo lưng, mặc quần màu hồng lúc bình minh, dùng lụa mỏng quấn quanh. Ngay bên háng trái lại có một dây hoa cúc màu đỏ có ngọn vượt qua đến háng bên phải, rũ xuống dưới hướng ra ngoài, rồi đứng trên hoa sen tím.
Bồ Tát Thị Giả ở gian nhỏ bên phải có tay trái co cánh tay, hiển lòng bàn tay về phía trước cầm xâu chuỗi có hai mươi mốt hạt châu. Tay phải duỗi cánh tay ngay trên bắp tay khoe cây phất, dùng lụa hoa màu xanh trải rộng hai háng.
Dây tơ báu cột buộc eo lưng, mặc quần màu hồng lúc bình minh, dùng lụa mỏng quấn quanh trên quần. Bên dưới háng bên trái có một dây hoa xanh lục có ngọn vượt qua háng bên phải, rũ xuống dưới hướng ra ngoài, rồi đứng trên hoa sen màu trắng tím.
Ở bên trên hai Thị Giả Bồ Tát ấy đều có Tu Đà Hội Thiên toàn thân màu trắng, có áo choàng vai màu vàng quấn bắp tay, mặc quần lụa đào, đều đứng ngay trên mây năm màu, đều tán rải hoa tạp để làm cúng dường.
Lại phía sau hai Thị Giả Bồ Tát ấy đều có bốn vị Bồ Tát, trên dưới oai nghiêm, ngồi ngay thẳng thân, trợ thần thông của Phật, tiếp dẫn chúng sanh.
Phía trên gian nhỏ bên trái có hai vị Bồ Tát ngồi chung với nhau. Một vị Bồ Tát phía trước, toàn thân màu vàng nhạt, đầu có mão hoa, Anh Lạc trang nghiêm nơi cổ, tai không có đeo vòng, hào quang tròn màu đỏ, mặt hướng về phía sau, dạng như cùng Bồ Tát phía sau nói chuyện, dùng lụa trắng tinh từ trên bắp tay phải hướng về phía sau.
Quấn ló ra ở trên khuỷu tay trái, rũ hướng xuống dưới. Tay trái co cánh tay ngay trên đầu gối trái, rũ cánh tay, bàn tay xuống dưới. Tay phải hướng lên trên, dùng ngón tay phải nâng đỡ cổ tay trái, mặc quần màu hồng lúc bình minh, dựng chéo đầu gối trái, ngồi trên hoa sen trắng.
Một vị Bồ Tát phía sau, toàn thân màu vàng, đầu đội vòng hoa, hào quang tròn màu xanh lục, lụa đào quấn bắp tay, chắp tay cung kính, mặc quần màu hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân, ngồi trên hoa sen xanh.
Tiếp theo, bên dưới lại vẽ một vị Bồ Tát, toàn thân màu vàng, đầu đội vòng hoa, tai có đeo vòng màu xanh lục, hào quang tròn màu đỏ nhưng không có lụa quấn bắp tay.
Tay phải: Co cánh tay hướng về trên đùi phải, đem ngón trỏ, ngón cái vịn nhau, dựng mở ba ngón còn lại hướng về thân.
Tay trái: Co cánh tay, cánh tay ấy để trên đầu gối, bắp đùi trái. Tay cầm hoa sen với cọng hoa ấy quấn ở khuỷu cánh tay, đầu hoa hướng lên trên, ngang bằng với vai, cổ. Mặc quần áo màu hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân mà ngồi trên hoa sen màu tím nhạt.
Tiếp theo, bên dưới có một vị Bồ Tát, toàn thân màu vàng, làm bộ vú lớn, đầu không có vòng hoa, tai có đeo khoen màu trắng, hào quang tròn màu xanh, không có lụa quấn bắp tay, dựa theo làm bên cạnh thân.
Tay phải: Co cánh tay, đem ngón cái ngón trỏ vịn nhau để thẳng trên ngực, dựng mở ba ngón còn lại hướng lên trên.
Tay trái: Duỗi cánh tay hướng xuống dưới, để bàn tay ở khoảng giữa bàn chân và đùi, mặc quần áo màu hồng lúc bình minh, quỳ hai gối ngồi trên hoa sen hồng.
Trên gian nhỏ bên phải ấy, có hai vị Bồ Tát ngồi song song với nhau. Một vị Bồ Tát phía trước, toàn thân làm màu vàng nhạt, ngoái mặt lại, dạng như cùng với Bồ Tát phía sau nói chuyện, đầu đội mão báu, tai không đeo vòng, hào quang tròn màu đỏ, cũng không có lụa quấn bắp tay.
Tay trái: Co cánh tay để khuỷu tay ấy trên đầu gối, bắp đùi trái, úp lòng bàn tay hướng xuống dưới, đều duỗi năm ngón tay. Đem cánh tay phải hướng lên trên cổ tay trái, dạng của ngón trỏ, ngón cái như vịn nhau, rồi co ngón giữa, hơi co ngón vô danh, dựng ngón út hướng lên, trên mặc quần màu hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân, ngồi trên hoa sen hồng.
Tiếp theo, vị Bồ Tát phía sau, toàn thân màu vàng, đầu có mão hoa, tai không đeo khoen, hào quang tròn màu xanh lục, dùng lụa màu đỏ quấn quanh trên bắp tay.
Tay phải: Co cánh tay cầm lá sen, trong lá đựng đầy, mỗi mỗn an riêng hoa sen năm màu.
Tay trái: Co cánh tay giao nhau trên cẳng chân, trong lòng bàn tay ấy làm một hoa màu xanh, dạng như hình mỗi mỗi ném hoa trước mặt Tượng cúng dường, mặc quần màu hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân, ngồi trên hoa sen trắng.
Tiếp theo, bên dưới: Một vị Bồ Tát, toàn thân màu vàng, đầu có mão báu, tai có đeo khoen vàng ròng, hào quang tròn màu đỏ, trên bắp tay trái ấy có đeo vòng hoa, rũ xuống khoảng giữa cánh tay phải, xuống đến eo lưng.
Tay trái: Co cánh tay để trên bắp đùi trái, hướng lòng bàn tay vào thân, cầm hoa sen trắng, hoa ngang bằng vầng trán, mặt Bồ Tát ấy như hình ngửa nhìn hoa.
Tay phải: Co cánh tay, dùng bàn tay nắm bên cẳng chân phải, hướng lòng bàn tay ra cạnh bên ngoài, mặc quần hồng lúc bình minh, giao chéo hai bàn chân, ngồi trên hoa sen màu tím nhạt.
Tiếp theo, bên dưới: Vị Bồ Tát, toàn thân màu vàng, đầu có vòng hoa, hào quang tròn màu xanh, tai đeo khoen vàng ròng, vú cao lớn.
Tay trái: Co cánh tay dựng thẳng hướng lên trên, khuỷu tay chạm đầu gối trái, bàn tay nâng rương Kinh.
Tay phải: Co cánh tay để trên đầu gối phải, co ngón vô danh, mở bốn ngón còn lại như hiển cao lòng bàn tay, mặc quần màu hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân, ngồi trên hoa sen hồng.
Các nhóm Bồ Tát đã nói bên trên thì trên cánh tay, cổ tay đều có đeo vòng xuyến báu. Nhóm này đều là quyến thuộc của Chư Phật.
Sau lưng Tượng ấy vẽ hình hai cái cây, trên cây vẽ làm hình Lô Hề Đà Ca Bố Sắt Ba.
Rohitaka puṣpa: Đường nói là hoa Lăng Tiêu xen kẽ với lá cây.
Trên hào quang của Tượng ấy, lại làm một hàng ghế báu, chồng lên nhau mà thành. Trên ghế báu ấy, làm một ngăn riêng, bên trong ngăn vẽ ba tháp Xá Lợi gạch nung xếp thành, dùng báu màu trắng trang nghiêm năm tầng phù đồ.
Stūpa: Tháp nhiều tầng trong Tháp ấy với cửa của phù đồ đều làm hình Hóa Phật. Nirmāṇa buddha Tát Bà Bồ Đà Ô Sắt Nị Sa Ấn Chú thứ nhất.
Sarva buddhoṣṇīṣa: Đường nói là Nhất Thiết Phật Đảnh.
Trước tiên, ngửa hai tay: Trở ngược móc hai ngón vô danh co ở trong lòng bàn tay, đều co hai ngón út, hai ngón giữa vào trong lòng bàn tay, duỗi thẳng ngón trỏ, đầu ngón cách nhau hơn một Thốn 1/3dm, mở hai ngón cái, đưa ngón cái qua lại.
Chú là:
Na mô tát bà đá tha yết đế phiếu a la ha tế tam miệu tam bồ đề tế đá điệt tha du đạt nê, du đạt nê, tát bà đạt ma tỳ du, tát bà bà ba tỳ du đạt nễ du đề, tỳ du đề tát bà đạt ma, tỳ du đề sa ha.
Ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt, dùng nước nóng thơm tắm gội rồi làm cái Thủy Đàn, đốt hương cúng dường thức ăn uống nhiều ít… sẽ diệt tất cả tội, tiêu các Cổ Độc ác, lại trị các bệnh. Nên dùng Chú này, chú vào tất cả thuốc bảy biến rồi uống thì sự khổ đau bên trong bụng tùy theo uống vào liền ngưng, tiêu diệt chất độc ác.
Thích Ca Phật Tâm Ấn Chú thứ hai.
Sáu ngón tay: Cái, giữa, út đều dựng thẳng dựa đầu nhau, đem hai ngón trỏ hướng vào bên trong cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, ngón vô danh cũng vậy, mở cổ cánh tay cách nhau bốn thốn 4/3dm Ấn này cùng đồng với Quán Thế Âm Tâm Ấn, cũng cùng đồng với Hỏa Đầu Kim Cang Luân Ấn Chú là:
Úm tát bà tất để kê tỳ du, đà la nê sa ha.
Chú Sư nếu muốn được cúng dường Chư Phật mười phương, muốn tránh tất cả chướng nạn, trừ tất cả các quỷ bệnh, trị tất cả bệnh đau thì nên làm pháp này.
Nếu biết người có quỷ bệnh, làm cái Thủy Đàn rộng bốn khuỷu tay, chính giữa để một lò lửa, đốt cành cây Bách, luôn luôn tụng Chú liền khỏi bệnh.
Nếu một ngày chẳng khỏi bệnh, thì ngày ngày đều làm, bảy ngày liền khỏi bệnh.
Lại Phật Tâm Ấn Chú thứ ba.
Tay phải đem bốn ngón phía sau nắm ngón cái làm thành quyền, tức là Ấn ấy. Tay trái không có dùng.
Chú là:
Đá điệt tha a di lý đê a thấp ba thang kế ma mạt la, ma mạt la xa ma, ba la xa ma ô ba xa ma đô nô, tỳ đô nô đô lệ, đô mô lệ sa ha.
Nếu đi đường xa thì người tụng Chú này, vĩnh viễn chẳng bị mệt mỏi.
Khi đi dường bị gió thổi lạc đường, chẳng biết Đông Tây, hoặc có quỷ đi đến chỉ chỗ sai lầm, hoặc có người ngựa bị chết… Liền ở chỗ đó dựng cột trụ đá, trên trụ đá sao chép Chú này xong, tụng một trăm lẻ tám biến.
Nếu không có trụ đá, liền dựng cây phan, trên cây phan lại sao chép Chú này, tụng một trăm lẻ tám biến thì các quỷ thần ác nghe Chú này xong, vĩnh viễn chẳng được trụ, đi không có chướng nạn.
Nếu hai mươi tuổi trở lại. Đứa bé bị bệnh thì lấy dây năm màu làm sợi dây Chú, kết 54 gút, dùng Ngưu Hoàng mài nghiền làm mực, ở trên miếng lụa sao chép Chú này xong, cột buộc trong sợi dây Chú rồi đeo trên cổ đứa bé bị bệnh, thì liền khỏi bệnh.
Lại Phật Tâm Ấn Chú thứ bốn.
Tay phải đem ngón cái vịn trên móng ngón út, mở bày dựng ba ngón còn lại.
Tay trái trở ngược cài chéo trên cạnh eo, đứng ngồi tùy ý đều được dùng Chú là:
Úm thời na thời na ca la ca la ma la ma la sa la sa la bổ la bổ la sân đà sân đà tần đà tần đà ô hồng, phán sa ha.
Nếu nhóm bò, ngựa, các loài súc sanh có bệnh thời khí. Lấy lông của nhóm bò, ngựa, lạc đà, lừa, la… cùng hòa trong sữa bò.
Khi Mặt Trời lặn thời đêm đêm làm Thủy Đàn, chính giữa Đàn để lò lửa, Chú Sư hướng mặt về phương Bắc, lấy chút ít lông trong sữa, lấy xong tâm niệm: Chư Phật mười phương vì tất cả chúng sanh cứu khổ, tụng Chú này một biến xong liền thiêu đốt trong lửa, như vậy một đêm một trăm lẻ tám biến.
Ngày ngày làm pháp mãn bảy ngày xong thì trong nước hết thảy tất cả súc sanh bị bệnh đầu được khỏi.
Lại Phật Tâm Ấn thứ năm.
Tay phải: Co ngón cái hướng vào lòng bàn tay, mở bung bốn ngón còn lại hướng lên trên dựng. Chú đồng với Tâm Ấn Chú thứ hai lúc trước.
Nếu khi vua bị bệnh thời ở trong bảy ngày thiết Trai làm Thủy Đàn bốn khuỷu tay, hương, hoa, thức ăn uống, trăm loại cúng dường để ở trong Đàn. Chính giữa Đàn để lò lửa, Chú Sư ngày ngày dùng nước nóng thơm tắm rửa, mặc quần áo sạch mới, đi vào Đạo Tràng, hô gọi Phật, Bồ Tát, bốn Thiên Vương…
Lấy cây Bồ Đề. Bodhi vṛkṣa. Nếu không có cây này thì lấy cây Cốc cũng được, chặt làm một trăm tám mươi đoạn, một đoạn một Xích 1/3m, lấy hai đầu của một đoạn xoa bôi sữa bò. Pháp xoa bôi ấy, trước tiên xoa bôi ở ngọn, sau đó xoa bôi ở gốc. Chú Sư hướng mặt về phương Bắc tụng Chú này đến Đô Mô lệ. Dhūmri xong, liền đọc tên vua khiến khỏi bệnh, Sau đó, miệng tụng Sa Ha.
Svāhā xong thì thiêu đốt trong lửa. Pháp thiêu đốt ấy, hướng ngọn cây về phía trước, hướng gốc cây về thân. Như vậy, một đêm hết một trăm lẻ tám đoạn, cho đến bảy ngày thì bệnh của vua liền khỏi.
Nếu Chú Sư bị bệnh. Y theo pháp lúc trước dùng lửa thiêu đốt mè một trăm lẻ tám biến liền khỏi bệnh.
Nếu người sắp muốn đi xa. Y theo pháp lúc trước, ngày ngày đốt ngôn cây Tử Đàn. Như vậy bảy ngày làm pháp bày xong, thì đi xa tức không có sợ tất cả chướng nạn.
Nếu khi hành đạo, bảy người trở lại cùng đi. Làm pháp này thì này chẳng sợ tất cả nạn giặc cướp với quỷ.
Nếu người bị đau buốt đầu. Y theo pháp lúc trước, Chú Sư cầm hương hoa, tụng Chú bảy biến, sau đó cho người bệnh ngửi xong, lại Chú một biến thì một lần thiêu đốt, đủ hai mươi mốt biến… trước Sa Ha. Svāhā thì kêu tên gọi của người bệnh khiến cho khỏi bệnh. Nếu bệnh ấy chẳng khỏi, như vậy ngày ngày làm, đến bảy ngày liền khỏi bệnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tứ Quả
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Mười Một - Phẩm Tứ đế
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bảy Mươi Chín
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Năm - Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký - Phần Hai