Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Trong Mộng Thành đạo - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT KINH
TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT
THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI MƯƠI SÁU
PHẨM TRONG MỘNG THÀNH ĐẠO
TẬP HAI
Bấy giờ, Nhu Thủ ở trước Phật thưa: Bạch Thế Tôn! Con vừa nghe Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, không có hình chất, tâm đại bi của Như Lai thấy hết vạn vật, vì sao Như Lai lại nói khai mở giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh Cõi Phật, là pháp hữu lậu, là pháp vô lậu, là pháp hiện tại, là pháp quá khứ, là pháp vị lai?
Phật lại bảo đây là pháp độ đời, chẳng phải độ đời, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, đây là pháp sinh tử, đây là pháp Niết Bàn, vì sao Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, cũng không có hình chất ư?
Phật bảo Nhu Thủ: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông hỏi, các pháp ba thừa và lục độ trong ba đời, độ đời, sinh tử, hữu vi, vô vi, không có hữu vi cũng không có vô vi, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, hữu lậu vô lậu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, không, vô tướng, vô nguyện, từ pháp hữu vi cho đến pháp vô vi đều là pháp số của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Pháp ấy không có hình tướng.
Vì không có hình tướng, không có âm thanh nên không thấy được. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thiện xảo đều là pháp của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, diệt tận Niết Bàn, hoàn toàn vắng lặng, an lạc.
Phật bảo Nhu Thủ: Bồ Tát đều biết rõ bản tánh của pháp ấy nên diễn nói có báo ứng chăng?
Diễn nói để trừ tám nạn âm thanh không có tiếng vang, có báo ứng chăng?
Nghiên cứu cùng tận nguồn gốc của chúng sinh có báo ứng chăng?
Thuận theo Kinh Điển dứt trừ kết sử có báo ứng chăng?
Giả sử Như Lai trong ba đời không đắm nhiễm, khai mở chánh pháp, giáo hóa chúng sinh chưa từng uổng phí có báo ứng chăng?
Giả sử các pháp có kết quả báo ứng có thể tận chăng?
Tâm thức xoay vần ra vào không bị ngăn ngại có thể tận chăng?
Hoặc dùng quyền tuệ thuận theo ái dục có thể tận chăng?
Thuận theo oai nghi phép tắc không sai phạm có thể tận chăng?
Ba thừa giáo hóa làm cho viên mãn có thể tận chăng?
Suy nghĩ nguồn gốc pháp, nắm giữ không xả bỏ có thể tận chăng?
Hiểu rõ các pháp câu cú đều thanh tịnh, hiểu rõ pháp vi diệu, câu cú rõ ràng, quán bốn niệm xứ và định ý của Chư Phật có thể tận chăng?
Phân biệt bốn pháp chánh cần chưa từng xả bỏ, diễn nói các pháp không cùng mà không lấy làm khó, có thể tận chăng?
Thần thông không bị ngăn ngại bởi núi, sông, đá, tường, thần thông như vậy có thể tận chăng?
Phân biệt tất cả năm căn Thánh Điển, chẳng phải ngoại đạo tà giáo hủy hoại có thể tận chăng?
Thần lực của Như Lai nói rõ chánh pháp, không phát sinh nghi ngờ tưởng đúng hay sai.
Đem hoa bảy Giác chi dùng làm anh lạc, ở trong đại chúng không khiếp sợ, diễn thuyết ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hoàn toàn xa lìa tà đạo có thể tận chăng?
Giảng thuyết về sự thuận nghịch của tam muội chánh định, hoặc phân biệt chữ, câu, văn, nghĩa có thể tận chăng?
Khổ, tập, diệt, đạo cho đến thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, xen nhau thọ báo có thể tận chăng?
Nhu Thủ bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Giáo pháp vô hình không thể tận, các pháp hữu vi đều bị hao tổn, Niết Bàn vô vi không thể tận.
Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật: Nói về Niết Bàn, như vậy thế nào là Niết Bàn?
Phật bảo Tối Thắng: Niết Bàn là dừng nghỉ.
Lại hỏi: Thế nào là dừng nghỉ?
Đáp: Là vô vi vắng lặng.
Lại hỏi: Thế nào là vô vi?
Thế nào là vắng lặng?
Đáp: Diệt tưởng là vắng lặng, thức dừng là vô vi.
Lại hỏi: Chẳng phải không chăng?
Đáp: Chẳng phải không không.
Lại hỏi: Chẳng phải không không thì tại sao thức dừng?
Đáp: Chẳng phải không không.
Bấy giờ, Bồ Tát Tối Thắng càng thêm nghi ngờ, liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con hỏi hai việc mà được đáp như nhau, phải không?
Phật bảo Tối Thắng: Thôi đi, này thiện nam! Chớ cho Như Lai trả lời giống nhau về tánh không, nhưng ý của thiện nam vẫn chưa hiểu rõ. Nay ta hỏi ông về nghĩa chẳng phải không không và thức tĩnh lặng. Tùy theo khả năng của ông mà trả lời.
Này thiện nam! Nghĩa chẳng phải không là thế nào?
Đáp: Các pháp không có số, chẳng phải không có số.
Phật dạy: Chẳng phải thế.
Phật lại hỏi: Thế nào là thức dừng lại tĩnh lặng?
Tối Thắng bạch Phật: Các pháp đều trở về không sinh khởi, chẳng phải không sinh khởi.
Phật dạy: Chẳng phải thế.
Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, trong khoảnh khắc liền lùi lại.
Lại bạch Phật: Con tự xét mình có lỗi đối với lời dạy của Như Lai. Nguyện Thế Tôn thương xót giảng nói để dứt trừ sự nghi ngờ cho con.
Phật bảo Tối Thắng: Pháp có vô số nhưng ông chỉ hiểu phần căn bản. Núi Hương có cây, có một nhánh cao đến vạn tầm, đến khi cong xuống đất thì quả mới chín. Quả lẽ ra ở trên cây, nhưng trở lại xuống đất. Sự hiểu biết của ông cũng như vậy.
Ta hỏi ông nghĩa không chính là dùng có để trả lời, giống như quả của cây kia có gì khác nhau?
Ta sẽ nói tất cả cho ông, ông nên ghi nhớ kỹ.
Đáp: Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Phật bảo Tối Thắng: Phi là chẳng phải không. Tất cả các pháp đều gọi là phi. Phi là là tên gọi của các pháp. Có tên gọi thì chẳng phải không. Hiểu rõ nghĩa phi thì trở về với không, cho nên gọi là chẳng phải không. Nghĩa là, thức chẳng phải có, chẳng phải không.
Thế nào là thức chẳng phải có, chẳng phải không?
Không nhiễm thế tục gọi là chẳng phải có. Ở nơi không, tĩnh lặng thì gọi là chẳng phải không. Thức là bỏ chỗ này lấy chỗ kia, thì gọi là chẳng phải có. Ở nơi bờ sinh tử từ mẫn chúng sinh gọi là chẳng phải không. Có thể hóa thân khắp Thế Giới trong mười phương, các sự biến hóa đó đều không tịch, nên gọi là chẳng phải có.
Một thức đưa đến hóa thân, hóa thân đều nói pháp, gọi là chẳng phải không. Như Lai đi vào thiền định, thân tâm vắng lặng trải qua ức ngàn na do tha hằng hà sa số kiếp không sinh tưởng diệt thì gọi là chẳng phải có. Lại xuất định để cứu giúp chúng sinh, khiến đạt đến vô vi thì gọi là chẳng phải không.
Thế nào?
Này Tối Thắng! Nay ta phân biệt rõ ràng cho ông về sự chẳng phải có chẳng phải không, đó là nghĩa chân không Niết Bàn, phải không?
Tối Thắng bạch Phật: Không thật là không, Niết Bàn thật là Niết Bàn.
Phật bảo Tối Thắng: Thôi đi thiện nam, đây chẳng phải không, cũng chẳng phải Niết Bàn.
Vì sao?
Vì do thế tục giả danh tạm dùng văn tự để truyền nhau, cho nên gọi là chẳng phải có, chẳng phải không.
Cảnh giới pháp tánh hoàn toàn không trói buộc, không có pháp danh tự, làm sao lại có chẳng phải có, chẳng phải không?
Trừ bỏ cao thấp, không còn tâm đúng sai, nhận biết tham sân và không tham sân, hiểu rõ tâm vô minh và tâm không vô minh, biết rõ sự trói buộc của năm triền cái là một, cũng không thấy một, đó là không, là Niết Bàn.
Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật, thưa: Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Giảng nói về pháp tánh không và cảnh giới Niết Bàn, chẳng phải có, chẳng phải không, thật không ai bằng.
Khi nói pháp này, có sáu vạn Tỳ Kheo theo bản nguyện Thanh Văn nhưng bây giờ tâm hướng về đại thừa đều không còn thoái chuyển. Có mười một ức Trời người đạt đến bậc tận tín. Lại có tám mươi ngàn Bồ Tát ở phương khác chứng được pháp vô sinh nhẫn.
Phật bảo: Này thiện nam! Đại Bồ Tát hiểu pháp tánh không phải thực hành mười việc để đạt đến diệt độ.
Những gì là mười pháp?
1. Chư Phật Thế Tôn thường ở nơi pháp giới mà không bỏ đạo trí.
2. Chư Phật Thế Tôn từ mẫn tất cả chúng sinh, không bỏ tâm đại bi.
3. Việc làm được như nguyện, không sai trái.
4. Độ thoát tất cả chúng sinh các căn được thuần thục.
5. Chư Phật Thế Tôn hiểu rõ các pháp không không thật có.
6. Chư Phật Thế Tôn phân biệt về trí tuệ, ba độc cũng không thật có.
7. Chư Phật Thế Tôn đối với các pháp giới không sinh khởi thêm bớt.
8. Đối với hàng sơ học mới phát tâm bình đẳng không hai.
9. Hiểu rõ như pháp tánh, không bỏ bản nguyện tu hành.
10. Chư Phật Thế Tôn thực hành pháp Nhất tướng vô tướng.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ Tát hiểu rõ pháp tánh không phải tu mười pháp này để đạt đến Niết Bàn.
Lại nữa, Đại Bồ Tát thực hành sáu thần thông, đạt đến pháp tánh không phải thực hiện mười việc.
Những gì là mười việc?
1. Quán sát tận cùng đời quá khứ bằng trí tuệ không sai.
2. Quán sát bằng tận cùng đời vị lai bằng trí tuệ không sai.
3. Quán sát tận cùng đời hiện tại bằng trí tuệ không sai.
4. Quán sát năm cõi chúng sinh biết hết nguồn gốc bằng trí tuệ không sai.
5. Quán sát tất cả sự sinh diệt của thế gian bằng trí tuệ không sai.
6. Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi có mà sinh, từ nơi có mà diệt bằng trí tuệ không sai.
7. Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi không mà sinh, từ nơi không mà diệt bằng trí tuệ không sai.
8. Đạo tâm kiên cố không bỏ chúng sinh bằng trí tuệ không sai.
9. Tâm không lựa chọn: Có nên độ hay không nên độ bằng trí tuệ không sai.
10. Biết rõ Pháp Giới các căn không khiếm khuyết bằng trí tuệ không sai.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ Tát tu sáu thần thông để đạt đến pháp giới không.
Phật bảo: Này thiện nam! Đại Bồ Tát đạt đến pháp giới không phải tu mười tuệ.
Những gì là mười tuệ?
1. Quán các chúng sinh có bao nhiêu tâm, có bao nhiêu hạnh thảy đều biết, đó là tuệ của Bồ Tát.
2. Quán tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm, bao nhiêu quả báo đều biết rõ.
3. Im lặng không nói như Thái Tử Vụ Phách, biết hết tâm ý và sự nhớ nghĩ của chúng sinh.
4. Biết các chúng sinh tâm khác, hạnh khác, dùng Thánh tuệ của Phật mà giáo hóa cho họ.
5. Từ xưa đến nay, tu tập pháp tánh mà không xả bỏ tâm đại thừa.
6. Làm an ổn chỗ ở chúng sinh, trụ vào chỗ Phật đã trụ.
7. Nhờ Thánh tuệ của Phật nên biết hết tâm, ý, thức và sự nhớ nghĩ của chúng sinh trong năm cõi.
8. Đã thuyết pháp nhưng không bỏ đại thừa.
9. Được tâm thức Phật, định ý không tán loạn.
10. Tâm độ vô lượng chúng sinh nhưng không trụ ở chỗ giải thoát, cũng không thấy chúng sinh được độ.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ Tát tu tập đầy đủ mười tuệ để đạt đến pháp giới không.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bất Tư Nghị Công đức Chư Phật Sở Hộ Niệm - Phần Bốn
Phật Thuyết Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô Tướng - Phẩm Mười Tám - Phẩm Pháp Sư Công đức
Phật Thuyết Kinh Sa Di Thập Giới Nghi Tắc
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Trường Thọ Vương - Kinh Phạm Thiên Thỉnh Phật
Phật Thuyết Kinh Nội Tạng Bách Bảo