Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Bốn - A Di đà Phật đại Tư Duy Kinh Nói Phần Tựa - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN BỐN

A DI ĐÀ PHẬT ĐẠI TƯ DUY KINH

NÓI PHẦN TỰA  

TẬP MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thời, Đức Phật ở trong núi Phổ Đà Lạc Già.

Potalaka: Đây nói là Hải Đảo cùng với chúng Đại A La Hán gồm một ngàn năm trăm người đều đến dự. Năm ngàn người thuộc nhóm Quán Thế Âm Bồ Tát. Avalokiteśvara, Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát. Mahā sthāma prāpta đều đến dự, với các hàng Trời.

Deva, Rồng. Nāga, Dạ Xoa Yakṣa, A Tu La. Asura, Ca Lỗ La. Garuḍa, Khẩn Na La. Kiṃnara, Ma Hầu La Già. Mahoraga, Người. Manuṣya, Phi Nhân. Amanuṣya… trước sau vây quanh đi đến chỗ của Đức Phật. Đã đến chỗ của Đức Phật xong, cúi năm vóc sát đất đảnh lễ bàn chân của Đức Phật. Lễ bàn chân của Đức Phật xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.

Bây giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu bốn Bộ chúng với Bí Sô. Bhikṣu, Bí Sô Ni. Bhikṣuṇī, Ưu Bà Tắc. Upāsaka, Ưu Bà Di. Upāsika, tất cả chúng sanh… tu hành thiện pháp. Kuśala dharma được sanh về nước của Phật A Di Đà.

Amitābha buddha kèm với thấy Đức Phật kia thì làm thế nào để được?

Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: Nếu bốn Bộ Chúng muốn sanh về nước kia thì cần phải thọ trì A Di Đà Phật Ấn kèm với Đà La Ni với làm Đàn pháp cúng dường, lễ bái… mới được sanh về cõi nước của Đức Phật ấy.

Nếu bốn Bộ Chúng đem mọi thứ hoa rải lên Đức Phật A Di Đà, phát Nguyện, tụng Chú sẽ được mười loại công đức.

Thế nào là mười?

1. Tự phát tâm hiền thiện.

2. Khiến người khác phát tâm hiền thiện.

3. Chư Thiên vui vẻ.

4. Tự thân đoan chánh, sáu căn đầy đủ, không có tổn hoại.

5. Khi chết thì biến thành đất báu.

6. Đời đời kiếp kiếp sanh ở nước trung tâm với sanh vào giòng tộc phú quý, gặp Phật nghe pháp, chẳng sanh nơi biên địa với giòng tộc hạ tiện.

7. Thành chuyển luân vương làm vua bốn thiên hạ.

8. Đời đời thường được thân nam.

9. Được sanh vào nước của Phật A Di Đà, trên hoa sen bảy báu, ngồi kiết già thành A Bệ Bạt Trí.

Avaivartika: Bất thoái chuyển.

10. Thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Anuttara samyaksaṃbodhi, ngồi trên Tòa Sư Tử bảy báu, phóng ánh sáng lớn cùng với Đức Phật A Di Đà không có khác.

Đây gọi là mười loại công đức rải hoa.

Nếu bốn Bộ Chúng đem bảy báu tràn đầy trong Thế Giới, bố thí tất cả Chư Phật ở mười phương thì chẳng bằng đem một đồng tiền, một bông, một cây hương…dùng tâm tốt bố thí Phật A Di Đà. Nếu làm công đức này thì tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên… thảy đều vui vẻ. Khi chết sanh về cõi Phật A Di Đà.

Nếu người thắp đèn cúng dường thời sanh về cõi Phật A Di Đà, liền được Thiên Nhãn, thấy tất cả Chư Phật trong Thế Giới ở mười phương.

Nếu người dùng hương bố thí cúng dường. Khi chết được sanh về cõi Phật A Di Đà liền được hương thân. Thân thể thơm tho trên thân thường tuôn ra mây hương.

Nếu người cúi năm vóc sát đất cung kính, lễ bái Đức Phật A Di Đà thì được sanh về cõi nước của Đức Phật ấy.

Nếu người đem hương hoa, áo, thức ăn uống, mọi loại cúng dường trong nhóm Thủy Đàn, niệm Đức Phật ấy thì sanh về cõi nước ấy, liền được hương, hoa, áo, thức ăn…

Nếu người chẳng đem hương, hoa, áo, thức ăn cúng dường. Tuy được sanh về Tịnh Thổ ấy nhưng chẳng được quả báo của mọi loại cúng dường, hương, hoa, áo, thức ăn…

Nếu Chuyển Luân Vương trong mười vạn năm đem bảy báu tràn đầy bốn thiên hạ, bố thí mười phương Chư Phật thời chẳng bằng Bí Sô, Bí Sô Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… trong khoảng búng ngón tay, ngồi Thiền dùng tâm bình đẳng thương xót tất cả chúng sanh, niệm công đức của Phật A Di Đà.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tụng trì A Di Đà Phật Đà La Ni kèm với làm Ấn… ngày ngày cúng dường, liền được diệt trừ tội nặng: Năm nghịch, bốn nặng, hằng hà sa số sanh tử…

Nếu muốn được Xa Ma Tha Śamatha: Thiền Chỉ hiệu nghiệm, được sanh về cõi Phật A Di Đà, thành thân người nam đoan chánh thông minh, ngồi trên bảy báu thành tựu nhóm thông. Abhijñā: Thiên nhãn, thiên nhĩ… với được quần áo Cõi Trời cùng Phật không có khác thì nên làm tượng Phật A Di Đà.

Pháp làm Tượng ấy. Trước tiên, lấy bùn đất, nước thơm làm Đàn. Kêu một, hai, ba Họa Sư khéo léo vẽ đẹp, ngày ngày tắm gội cùng với họa sư ấy thọ tám giới trai. Thân của Chú Sư cũng ngày ngày tắm gội, làm Ấn hộ thân, cùng với họa sư làm Ấn hộ thân.

Cả hai: Chú Sư, họa sư đều không được phạm giới, phá trai, không ăn các vật thuộc ngũ tân, rượu thịt…

Làm Đàn: Chính giữa để cái trướng, bốn phương để thức ăn uống, quả trái, mọi loại âm nhạc cùng cúng dường Phật A Di Đà.

Họa Sư ấy mặc quần áo trắng sạch, dùng mọi loại màu sắc hòa chung với nước cốt của nhóm hương: Huân Lục, An Tất. Chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Chú Sư ngồi bên ngoài Đàn hướng mặt về phương Tây, Họa Sư hướng mặt về phương Đông, trước mặt Chú Sư để một lư hương, đốt mọi loại hương với rải các thứ hoa, ban đêm thắp đèn.

Chú Sư kết A Di Đà Phật Thân Ấn, tụng Đà La Ni Chú là:

Na mô a lê gia a di đà bà gia đát tha yết đá dạ a la ha đế tam miệu tam bồ đà gia đá điệt tha úm, a mật lý đê ha na ha na tát bà ba bả ni đà ha đà ha tát bà ba bả ni ô hồng, phất sa ha.

Tiếp theo, Họa Sư dùng pháp vẽ tượng Phật, chính giữa vẽ Đức Phật A Di Đà ngồi kiết già, tay làm A Di Đà Phật thuyết pháp Ấn: Hai tay đem ngón cái, ngón vô danh vịn đầu nhau, đem đầu ngón cái, ngón vô danh phải đè trên đầu ngón cái, ngón vô danh trái. Hai tay dựng mở ngón trỏ, ngón giữa, ngón út.

Gian nhỏ bên phải Phật làm tượng Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát, gian nhỏ bên trái làm tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, bên trên Đức Phật làm cái điện báu đều dùng bảy báu tạo thành, bên dưới cái điện làm cái trướng bảy báu, đều dùng bảy báu Anh Lạc tạo thành, trên cái điện báu ấy vẽ ba viên Đại Bảo Châu Vương, trên mỗi một báu phóng ra ánh sáng năm màu, trên ánh sáng hóa làm lầu gác điện báu, trong cái điện báu ấy làm Phật, Bồ Tát.

Đức Phật A Di Đà ấy ngồi trên tòa cao bảy báu, trên tòa cao ấy làm hoa sen bảy báu, Đức Phật A Di Đà ngồi trên hoa ấy. Nội Viện ấy có bốn góc làm bốn cái cây bảy báu. Bốn bên Nội Viện của Đức Phật ấy làm bốn cái điện bảy báu, trên điện báu ấy đều có bảy báu, trên mỗi một báu tỏa ra ánh sáng năm màu, trên mỗi một ánh sáng có cái điện bảy báu, trong điện báu ấy có Phật, Bồ Tát.

Nội Viện của Đức Phật ấy có bốn cái điện bảy báu, trên điện báu ấy đều có bảy báu, trên mỗi một báu tỏa ra ánh sáng năm màu, trên mỗi một ánh sáng có cái điện bảy báu, trong điện báu ấy có Phật, Bồ Tát.

Trước mặt Đức Phật, hai bên trái phải làm hai vị Bồ Tát đều tấu âm nhạc.

Dưới phần đáy của Đức Phật ấy có nước Cam Lồ, bên trong sanh ra vô lượng hoa báu, trên mỗi một hoa đều có Bồ Tát, hai bên trái phải đều làm năm trăm cây hoa.

Hình Đức Phậtấy làm màu vàng ròng, áo cà sa ấy làm màu đỏ, hào quang tròn của Đức Phật ấy dùng năm màu tạo thành, trên đầu Đức Phật ấy phóng ra ánh sáng năm màu. Các vị Bồ Tát ấy làm màu trắng vàng, trên thân Bồ Tát ấy làm áo Trời năm màu.

Bên trái Đức Phật ấy là Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi kiết già với tay trái úp lòng ở trên đùi trái, tay phải co lóng cánh tay trụ trên đùi phải, dựng cánh tay hướng lên trên, đem ngón cái vịn trên móng ngón vô danh. Tách dựng ngón trỏ, ngón giữa, ngón út. Để cạnh lòng bàn tay ngay phía trước.

Bên phải Đức Phật ấy, vẽ Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi kiết già với co cánh tay trái hướng lên trên vai, úp lòng bàn tay úp hướng về lưng, tay cầm hoa sen. Lóng cánh tay phải trụ trên phải chống trên đùi phải, tay cầm cây phất trắng, đuôi cây phất ló ra theo hướng bên phải.

Bốn bên nước. Cam Lồ ấy có vô lượng cây báu do bảy báu tạo thành. Ven bờ nước ấy dùng bảy báu tạo thành.

Bên trên chư Phất ấy có Chư Thiên rải hoa.

Làm Tượng này xong an trong Phật Điện, làm kết giới Ấn, dùng cây Khư Đà La làm bốn cây cọc đều dài tám ngón tay, cây ấy đều Chú vào một trăm lẻ tám biến, đóng ở bốn góc. Cây cọc này xong rồi thì đừng nhổ bỏ một cây cọc, như vậy ba cây còn lại cũng thế.

Lại dùng hạt cải trắng: Ở bốn phương với bên trong đều đào lỗ hổng, sâu một gang tay, rồi chôn.

Hạt cải trắng trong lỗ hổng, đều dùng Quân Trà Lợi Đại Tâm Chú, chú vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến, như pháp Mộc?

Cây cọc lúc trước Đại Tâm Chú là:

Úm hộ lô hộ lô đê sắt tra, đê sắt tra bàn đà bàn đà ha na ha na a mật lý đê, ô hồng phất.

Chú một trăm lẻ tám biến, chôn hạt cải xong, sau đó an trí tượng Phật A Di Đà xong, thỉnh bốn vị Tăng thiết trai, nhiều hơn cũng không có hạn định, ngày ngày cúng dường tụng.

Đại Thân Chú Chú là:

Na mô hát la đát na đá la dạ da Na mô a lê da, a di đá bà da đá tha yết đá gia a la ha đế tam miểu tam bồ đà gia đá điệt tha a mật lý đê a mật lý đá tam bà bễ a mật lý đô tri bà bễ a mật lý đa tỳ ca lan đágià di nê, già già na cát lý để yết lê tát bà tư ba ca sanh, ca lê duệ sa ha.

A Di Đà Phật Thân Ấn thứ nhất.

Hai tay đem hai ngón út mỗi bật ngay trên lưng ngón vô danh, đầu hai ngón vô danh trụ nhau, dựng đứng hai ngón giữa mở ra một Thốn 1/3dm, kèm dựng thẳng hai ngón cái, co hai ngón trỏ đè đầu hai ngón cái cùng trụ đầu nhau, đưa ngón trỏ qua lại.

A Di Đà Phật Đại Tâm Ấn thứ hai.

Dựa theo Thân Ấn lúc trước. Chỉ sửa: Co hai ngón cái vào lòng bàn tay, đem hai ngón trỏ đè trên móng hai ngón cái. Chú đồng với dụng của Chú lúc trước.

Làm Thủy Đàn bốn khuỷu tay. Dùng tám chén đèn bơ. Năm mâm bánh, quả trái, thức ăn. Chính giữa lò lửa, Chú Sư hướng mặt về phương Đông, lấy sữa bò, mật hòa với nhau, lại lấy cây Phả Cụ La. Đường nói là cây Cốc chặt dài một Xích 1/3m làm một trăm lẻ tám đoạn. Lấy bơ, mật xoa bôi hai đầu, một lần Chú thì một lần ném vào trong lửa, như vậy thiêu đốt đầy đủ một trăm lẻ tám lần, luôn luôn tụng Chú.

Nếu làm pháp này liền được Xa Ma Tha Śamatha: Thiền Chỉ, diệt hằng sa tội: bốn nặng, năm nghịch. Mỗi tháng ngày mười năm tắm gội, tụng Chú, làm pháp như lúc trước sẽ tùy theo ý sanh về cõi Phật A Di Đà.

A Di Đà Hộ Thân kết giới Ấn thứ ba.

Dựa theo Thân Ấn đầu tiên. Chỉ sửa hai ngón giữa với lòng bàn tay dính nhau, dùng hộ thân kết giới. Sau đó ngồi Thiền.

A Di Đà Tọa Thiền Ấn thứ bốn.

Hợp cổ tay, dựng thẳng hai ngón giữa, hai ngón vô danh khiến cho vạch lóng tương đương dính nhau. Đem hai ngón út bật ngay trên lưng hai ngón vô danh, để đầu ngón ngay lóng trên. Kèm dựng hai ngón cái, co lóng giữa của hai ngón trỏ để đầu ngón đè đầu ngón cái. Dùng trị bệnh.

Nếu thân có bệnh. Làm Thủy Đàn bốn khuỷu tay. Trước tiên làm Thân Ấn thỉnh gọi Tượng của Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Chú Sư ngồi chú vào sữa bò một trăm lẻ tám biến, thiêu đốt trong lửa, làm bảy ngày, ngày ngày như vậy thì bệnh ấy liền khỏi.

Từ lúc Mặt Trời lặn, liền làm pháp này, đến đầu đêm liền nghỉ, đến sau đêm lại làm, đến sáng sớm liền nghỉ. Như vậy làm bảy ngày.

A Di Đà Phật Diệt Tội Ấn thứ năm.

Hợp cổ tay, dựng thẳng hai ngón giữa, hai ngón vô danh khiến cho vạch lóng tương đương dính nhau. Mở hai ngón út dựng thẳng, mở hai ngón trỏ ngay trên lưng ngón giữa đừng dính nhau, hơi co đầu ngón. Kèm dựng hai ngón cái, để đầu ngón đè lóng thứ hai của ngón giữa.

Hành Giả khi ngồi Thiền, làm Ấn này tụng kết giới Chú, chú chung hạt cải trắng với nước, lửa rồi để trong phòng. Khi muốn kết giới, trước tiên dùng nước Chú này từ góc Đông Bắc nhiễu theo bên phải mà rưới vảy, trở lại đến góc Đông Bắc thì ngưng. Tiếp theo, dùng hạt cải trắng cũng đồng với lúc trước. Sau đó, dùng tay cầm lửa nhiễu quanh cũng đồng với lúc trước.

Như vậy, kết giới ba lần xong, tiếp theo liền ngồi Thiền. Dựa theo pháp thiền định quan sát suy nghĩ mọi sự dơ bẩn của nghiệp tội. Ở trong thiền định, tâm sanh tàm quý, kết Ấn sám hối tội lỗi đã gây tạo từ vô thủy cho đến đời nay, sau đó Chú vào tất cả thuốc hai mươi mốt biến rồi uống vào, liền trừ diệt tất cả tội.

Học Chân Như để nhận thức vô sanh trí tuệ quán trợ giúp cho Chú kèm theo nên hồi hướng đạo bồ đề. Bodhi mārga.

A Di Đà Phật Tâm Ấn thứ sáu.

Tay phải: Đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống, co chung vào bên trong lòng bàn tay trái nắm ngón cái trái. Trở lại đem ngón cái phải đè trên móng của ba ngón, dựng thẳng hai ngón trỏ rồi tách mở ra.

Làm cái Đàn bốn khuỷu tay, dùng năm màu làm. Chính giữa Đàn an tòa hoa của Đức Phật A Di Đà, phương Đông an tòa hoa của Văn Thù Sư Lợi cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi. Mañjuśrī Văn Thù Sư Lợi Ấn Chú thứ bảy.

Dựa theo Kim Cang Vương Ấn. Chỉ sửa hai ngón tró đều vịn lưng lóng trên của ngón giữa, đưa ngón trỏ qua lại Chú là:

Úm bà kê đà na ma sa ha.

Phương Bắc an tòa hoa của Thập Nhất Diện Quán Thế Âm. Eka daśa mukhaavalokiteśvara.

Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Ấn Chú thứ tám Ấn đồng với Bát Nhã Thân, đưa ngón cái qua lại.

Chú là:

Úm a lô lực Úm đế lễ lộc kế tỳ xa gia tát bà xa đô lỗ ba la mạt đà na ca la dạ sa ha.

Phương Nam an tòa hoa của Đại Thế Chí Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát Ấn Chú thứ chín.

Đem ngón vô danh phải bật ở lưng ngón vô danh, ngón giữa trái, hướng vào khoảng giữa của ngón trỏ và ngón giữa. Đem ngón vô danh trái từ khoảng giữa của ngón trỏ và ngón giữa, liền đưa vào khoảng giữa ngón giữa và ngón vô danh phải lòi ra, liền nhập vào khoảng giữa ngón trỏ và ngón giữa.

Đều co hai ngón trỏ móc đầu hai ngón vô danh. Co hai ngón giữa đè trên hai ngón cái, hướng đầu ngón vào bên trong. Trước tiên, đem ngón út trái co để trên lưng ngón vô danh phải, sau đó đem ngón út phải nắm lưng ngón út trái, đưa ngón cái qua lại.

Chú là:

Úm lô trì la mạt địa vong bà bồ xà na sân đà sân đà ô hồng, phất, sa ha.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần