Phật Thuyêt Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Chín - Phẩm Thánh Hạnh - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM MƯỜI CHÍN
PHẨM THÁNH HẠNH
PHẦN HAI
Này thiện nam tử! Thọ thân trong ba cõi không ai chẳng có sanh, cho nên sanh là cội gốc của tất cả thân. Còn già thời chẳng quyết định. Chúng sanh trong thế gian, do điên đảo che mờ tâm tánh, nên tham đắm nơi sanh mà nhàm lo già chết. Bồ Tát chẳng như vậy. Bồ Tát quán sát thân mới sanh đã thấy nỗi khổ.
Này thiện nam tử! Như có người nữ vào nhà người khác. Người nữ này xinh đẹp chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân.
Chủ nhà hỏi rằng: Nàng tên là gì, thuộc nơi ai?
Người nữ đáp rằng: Thân tôi tức là công đức đại thiên.
Chủ nhà hỏi: Nàng đến để làm gì?
Người nữ đáp: Chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ.
Chủ nhà nghe rồi vui mừng hớn hở: Nay ta phước đức, nên khiến nàng này đến nhà ta. Liền bèn đốt hương, rải hoa cúng dường, cung kính lễ bái. Lại thấy ngoài cửa có một người nữ hình dạng xấu xa, áo xiêm rách nát, do thứa nức nẻ, sắc mặt xám trắng, dơ dáy hôi hám.
Chủ nhà hỏi: Nàng tên gì, thuộc về ai?
Cô gái đáp: Tôi tên Hắc Ám.
Tại sao tên Hắc Ám?
Tôi đi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài, tốn của.
Chủ nhà nghe xong bèn cầm dao bén bảo rằng: Nàng nếu chẳng đi, ta sẽ chém chết.
Cô gái nói: Ông ngu si lắm, không có trí huệ.
Chủ nhà hỏi: Tại sao nói ta là ngu si không có trí huệ.
Cô gái đáp: Người đẹp đứng trong nhà ông chính là chị của tôi. Tôi thường đi chung với chị, nếu ông đuổi tôi cũng phải đuổi chị tôi.
Chủ nhà trở vô hỏi Công Đức Thiên: Ngoài cửa có cô gái nói là em của nàng có phải vậy chăng?
Công Đức Thiên nói: Thiệt là em gái tôi, tôi cùng đi chung với nó, chưa có lúc nào lìa nhau. Tùy ở chỗ nào tôi thường làm việc tốt, còn nó thường làm việc xấu. Tôi thường làm việc lợi ích, còn nó luôn làm sự suy hao. Nếu ai yêu tôi cũng phải yêu nó. Nếu cung kính tôi, cũng phải cung kính nó.
Chủ nhà liền nói: Nếu có cả sự tốt lẫn sự xấu như vậy, thời ta chẳng cần, hai nàng nên tùy ý đi đi. Lúc đó hai người nữ cùng dắt nhau trở về. Chủ nhà thấy cả hai đi rồi, trong lòng rất vui mừng hớn hở. Bây giờ hai người nữ lại cùng dắt nhau đến một nhà nghèo.
Người nghèo này lòng rất vui mừng mời rằng: Từ nay trở đi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.
Công Đức Thiên nói: Chúng tôi vừa bị người xua đuổi, cớ sao ông lại mời chúng tôi ở?
Người nghèo nói: Nay nàng tưởng đến tôi, vì nàng nên tôi phải kính cô kia, vì thế nên tôi mời cả hai ở nơi nhà tôi.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh Cõi Trời, vì sanh thời có già, bệnh, chết, thế nên đều bỏ. Không chút tâm luyến ái. Kẻ phàm phu chẳng biết lỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên họ tham luyến sanh tử.
Này thiện nam tử! Như đứa trẻ dòng Bà La Môn đương lúc quá đói thấy trong đống phân có trái Am La, bèn lượm lên.
Người trí ngó thấy quở rằng: Người là Bà La Môn, giòng giống thanh tịnh, cớ sao lại lượm trái nhơ trong đống phân.
Đồng tử nghe xong hổ thẹn nói: Tôi thiệt chẳng ăn, muốn đem trái ấy rửa sạch rồi ném bỏ.
Người trí nói: Ngươi ngu si quá, nếu rồi sẽ ném bỏ, đáng lẽ chẳng nên lượm lấy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, đối với vấn đề sanh chẳng lãnh thọ, cũng chẳng dứt bỏ, như người trí kia quở trách đứa trẻ. Kẻ phàm phu thích sanh ghét tử, như đứa trẻ kia lượm trái dơ rồi trở lại bỏ.
Này thiện nam tử! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán.
Có người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm ngon, liền hỏi đây là vật gì?
Người bán nói: Đây là đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ này, thời đặng sắc tốt, sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy Chư Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết.
Người khách nghe xong nghĩ rằng: Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức mạnh, thấy Chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết.
Nghĩ xong hỏi rằng: Ăn vật thực này nếu phải chết sao ông lại đem bán.
Người bán đáp: Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ có kẻ ngu, chẳng biết việc này, họ tham ăn nên họ trả giá đắt cho tôi.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh Cõi Trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy Chư Thiên, vì sanh Cõi Trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm phu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy gìa, bệnh, chết.
Này thiện nam tử! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể giết người. Tất cả thân ngũ ấm trong hai mươi lăm cõi đều có thể hại chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả. Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười tuổi cũng đều khổ não cả.
Này thiện nam tử! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch Cam Lồ, người nào được ăn chất Cam Lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh tật, an ổn, khoan khoái.
Kẻ ngu si tham chất Cam Lồ, chẳng biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ trật chân té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy hiểm, nên không đến lấy chất Cam Lồ.
Đại Bồ Tát cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng diệu Cõi Trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng diệu Cõi Trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
Này thiện nam tử! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất khổ. Đây gọi là Đại Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát sanh là khổ.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát lão là khổ như thế nào?
Sự già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm, mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Này thiện nam tử! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc đẹp.
Này thiện nam tử! Ví như Quốc Vương có một trí thần dùng binh giỏi. Có Vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo. Quốc Vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt Vua nước nghịch mang về dưng cho Quốc Vương. Cũng vậy, tuổi già bắt được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho Tử Vương.
Này thiện nam tử! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào việc gì.
Này thiện nam tử! Như nhà giàu to có nhiều của báu: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả. Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc già suy cướp giựt.
Này thiện nam tử! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy, tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dục sung sướng mà chẳng thể đặng.
Này thiện nam tử! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục thuở tráng kiện.
Này thiện nam tử! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi già suy ai cũng nhàm ghét.
Này thiện nam tử! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không còn vị ngọt.
Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già ép, thời không có ba thứ vị: Một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị Tọa Thiền.
Này thiện nam tử! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng, ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh thần kém suy.
Này thiện nam tử! Ví như có nhà Vua thường dùng chánh pháp cai trị nhân dân, chân thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí. Thuở đó nhà Vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn lưu vong đến nước khác.
Nhân dân trong nước kia thấy nhà Vua đều cảm thương nói rằng: Đại Vương ngày trước dùng chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao nay lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm thuở tráng kiện.
Này thiện nam tử! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Này thiện nam tử! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi ích cho ngưới, cho phi nhân, chim thú. Cũng vậy, thân người bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng thể có lợi ích.
Này thiện nam tử! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết, thế chẳng thể còn được.
Này thiện nam tử! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên. Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Này thiện nam tử! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy, già suy thường bị người khinh hủy.
Này thiện nam tử! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát già là khổ.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát bệnh khổ như thế nào?
Ví như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ. Như người có oán thù, tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy, tất cả chúng sanh thường bị bệnh khổ, lo rầu không yên.
Ví như có người hình dung xinh đẹp, Vương phi tâm dục yêu thương, sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền truyền lịnh khoét một mắt, cắt một vành tai, chặt một tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị người nhờm gớm khinh rẻ.
Cũng vậy, thân người trước thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bệnh khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì chết. Cũng vậy, người có bệnh thời chết.
Như Vua Chuyển Luân, Đại Thần, chủ binh thường làm tiền đạo đi trước, nhà Vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự chết thường theo sát bệnh khổ không rời.
Này thiện nam tử! Nhân duyên của bệnh làm cho khổ não, rầu lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng có thể cướp giựt mạng sống.
Bịnh lại có thể phá hoại sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức. Do những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết bệnh rất là khổ não. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát bệnh khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát tử khổ?
Sự chết có thể đốt cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ Cõi Trời Nhị Thiền trở lên, vì thế lực của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Như lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập, chỉ trừ Cõi Tam Thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Như lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ Cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Cõi Tứ thiền kia do cớ gì mà gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng cháy đến?
Này thiện nam tử! Cõi Tứ Thiền kia không có tất cả quá hoạn trong thân và ngoại cảnh.
Cõi Sơ Thiền có quá hoạn: Trong có giác quán, ngoài có hỏa tai.
Cõi Nhị Thiền có quá hoạn: Trong có vui mừng, ngoài có thủy tai.
Cõi Tam Thiên có quá hoạn: Trong có hơi thở, ngoài có phong tai. Cõi Tứ Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai họa lớn chẳng thể đến được.
Đại Bồ Tát cũng như vậy, an trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn, trong ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến được.
Lại này Thiện Nam Tử: Như Kim Súy Điểu có thể nuốt, có thể tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân, chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉ không tiêu được Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ cây dương liễu, vì thứ cây này mềm dẽo. Cũng vậy, tất cả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như thần Na La Diên có thể hàng phục tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn, vì bậc này vô ngại.
Lại này thiện nam tử! Ví như có người đối với kẻ thù giả làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng sanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn, vì bậc Bồ Tát này chẳng phóng dật.
Lại này thiện nam tử! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng, bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim cương chân bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như Kim Súy Điểu có thể nuốt các loài Rồng, chỉ không nuốt được Rồng thọ Tam Quy Y.
Cũng vậy, sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ Tát trụ ba môn chánh định: Không, vô tướng vô nguyện.
Lại này thiện nam tử! Như độc rắn ma la, khi rắn này cắn nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được, chỉ có chú A Kiệt Đa Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy, sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như có người bị nhà Vua giận, có thể dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịu dàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoát khỏi.
Này thiện nam tử! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng hay biết được.
Này Ca Diếp Bồ Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát tử khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát ái biệt ly khổ?
Ái biệt ly này có thể làm cội gốc cho tất cả sự khổ.
Như nói bài kệ rằng: Nhân ái sanh lo, nhân ái sanh sợ, nếu lìa sự ái, nào lo nào sợ. Vì ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh có già suy. Ái biệt ly khổ là nói sự chết. Vì biệt ly hay sanh những sự khổ vi tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ ràng.
Này thiện nam tử! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi, có Quốc Vương tên là Thiện Trụ nhà Vua trị nước tám muôn bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của Vua mọc lên một bứu thịt mềm nhuyễn như bông.
Bứu ấy lần lần to lớn, không làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà Vua vui mừng đặt tên là Đảnh Sanh.
Thời gian sau Vua Thiện Trụ đem việc nước giao cho Thái tử Đảnh Sanh, tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành.
Ngày rằm Thái Tử Đảnh Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu cao tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu Kim Luân, bánh xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến.
Vua Đảnh Sanh nghĩ rằng:
Từng nghe Ngũ Thông Tiên Nhân nói: Nếu dòng Vua Sát Đế Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới, có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà Vua đó sẽ đặng làm Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta nên thí nghiệm.
Nghĩ xong, Vua Đảnh Sanh tay tả bưng báu Kim Luân, tay hửu cầm lư hương, quỳ gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu Kim Luân, thời nên bay đi như Vua Chuyển Luân Thánh Vương thuở quá khứ. Nhà Vua phát thệ vừa xong, thời báu Kim Luân bay lên hư không, bay khắp mười phương, rồi trở về dừng lại trên tay tả Vua Đảnh Sanh. Nhà Vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương.
Sau đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như bạch Liên Hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất.
Vì muốn thí nghiệm Vua Đảnh Sanh liền bưng lư hương quì gối bên hữu mà phát thệ rằng: Nếu thật là báu Bạch tượng nên bay đi như thuở Vua Chuyển Luân Thánh Vương quá khứ. Phát thệ xong, Bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung Vua. Kế đó lại có mã bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng.
Vì muốn thí nghiệm Vua Đảnh Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát thệ rằng: Nếu thiệt là mã bảo thời phải như của Vua Chuyển Luân Tánh Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ sáng đến chiều, mã bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé biển rồi trở về cung Vua.
Kế đó lại có nữ bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhất, chân lông thoảng mùi Chiên Đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữi cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ, lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người.
Tay người ấy lúc chạm đến áo của Vua, liền biết thân Vua khỏe mạnh hay bệnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của Vua. Kế đó trong cung Vua tự nhiên có Ma Ni bảo châu lớn bằng bắp vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn như trục xe, thế lực của bảo châu này có thể che một do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau đó, lại có chủ tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý Vua muốn đều có thể dưng đủ.
Vua Đảnh Sanh muốn thí nghiệm bèn cùng chủ tạng thần ngồi thuyền ra biển, Vua bảo chủ tạng thần: Nay ta muốn đặng châu báu.
Chủ tạng thần liền lấy hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra mười kho châu báu lấy dưng cho Vua tâu rằng: Tùy ý nhà Vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển. Kế đó lại có chủ binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhất, điều khiển bốn binh chủng rất giỏi.
Lúc Vua cần binh thời hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần này có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ sức giữ gìn.
Lúc đó Vua Đảnh Sanh tự biết là Chuyển Luân Vương, bèn bảo các quan: Cõi Diêm Phù Đề này an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ, cả ngàn Vương Tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì?
Các quan tâu: Châu Phất Bà Đề Phương Đông còn chưa qui thuận, Đại Vương nên đem binh qua chinh phục. Vua Đảnh Sanh bèn cùng thất bảo bay qua châu Phất Bà Đề, nhân dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Các quan lại tâu nên chinh phục châu Cù Đà Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất Đơn Việt. Sau khi chinh phục ba châu xong.
Vua Đảnh Sanh bảo các quan: Châu Nam Diêm Phù Đề này cùng ba châu đều an ổn giàu vui, tất cả đều qui thuận ta, nay đây lại nên làm việc gì?
Các quan tâu: Cõi Trời Đao Lợi tuổi thọ dài lâu, an ổn, khoái lạc, thân Chư Thiên xinh đẹp hơn nhân gian, cung điện nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.
Vua Đảnh Sanh lại cùng Thất Bảo bay lên Cõi Trời Đao Lợi, trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần: Đó là cây gì?
Đại thần tâu: ây ấy tên là Ba Lợi Chất Đa La, Chư Thiên Cõi Đao Lợi này đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây đó.
Lại trông thấy màu trắng như bạch vân, Vua Đảnh Sanh hỏi đại thần chỗ đó là gì?
Đại thần tâu đó là thiện pháp đường, Chư Thiên Cõi Đao Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận những việc Cõi Trời cõi người.
Thiên Chúa Thích Đề Hoàn Nhân biết Vua Đảnh Sanh đã đến, liền ra tiếp rước, cầm tay vào thiện pháp đường lên tòa mà ngồi. Hai Vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn nháy là khác nhau.
Lúc đó Vua Đảnh Sanh nghĩ rằng: Nay ta có thể đuổi Thiên Chúa này để ta ở đây làm Thiên Vương. Thiên Đế Thích vốn thọ trì đọc tụng Kinh Điển Đại Thừa, thường vì Chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa của Kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại Thừa nên Thiên Đế có oai đức hơn.
Khi Vua Đảnh Sanh khởi ác tâm đối với Thiên Đế, tổn phước liền tự rớt xuống Diêm Phù Đề, nhớ tiếc Cõi Trời lòng rất khổ não. Không bao lâu Vua Đảnh Sanh phải bệnh chết.
Này thiện nam tử! Thiên Đế thuở đó chính là Phật Ca Diếp, Vua Đảnh Sanh thời là tiền thân của ta.
Này thiện nam tử! Phải biết ái biệt ly như vậy rất là khổ não.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát còn nhớ những trường hợp ái biệt ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn mà nên chẳng quán sát sự ái biệt ly khổ trong đời hiện tại!
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát oán tằng hội khổ?
Đại Bồ Tát này quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, loài người, trên trời đều có sự oán tằng hội khổ như vậy. Ví như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là rất khổ. Cũng vậy, Đại Bồ Tát quán sát năm loài chúng sanh đều là oán tằng hội hiệp rất khổ sở.
Ví như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích, nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp mà trốn lánh đi xa.
Cũng vậy, Đại Bồ Tát sợ sanh tử, nên tu hành sáu môn Ba la mật, chứng nhập Niết Bàn. Đây gọi là Bồ Tát tu hành Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát oán tằng hội khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát cầu bất đắc khổ?
Cầu là mong cầu tất cả, có hai thứ: Một là cầu pháp lành, hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ. Đây là lược nói ngũ ấm thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Như lời Phật nói, ngũ ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải.
Vì như ngày trước Phật bảo Thích Ma Nam: Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanh lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng gọi là khổ.
Lại như Phật bảo các Tỳ Kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ.
Lại như lúc trước Đức Phật nói với các Tỳ Kheo: Nếu người nào có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc.
Lại như Đức Phật nói:
Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh vui: Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như Phật từng nói kệ:
Trì giới thời là vui,
Thân chẳng thọ sự khổ.
Ngủ nghỉ đặng an ổn,
Thức dậy lòng vui vẻ.
Lúc nhận lấy y thực,
Đọc tụng và kinh hành,
Ở riêng nơi núi rừng,
Như vậy là rất vui.
Nếu đối với chúng sanh,
Ngày đêm tu lòng từ,
Nhân đây được thường vui,
Vì chẳng hại người khác.
Ít muốn biết đủ vui,
Học rộng biết nhiều vui,
A La Hán không chấp,
Cũng gọi là thọ vui,
Các vị Đại Bồ Tát,
Rốt ráo đến bờ kia.
Những việc làm đã xong,
Đây gọi là rất vui.
Thế Tôn! Trong các Bộ Kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy.
Thế nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay?
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ành thay! Lành thay! Ông khéo có thề thưa hỏi Đức Như Lai những nghĩa như vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạng hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ không khác với ngày trước đã nói.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật:
Như lời Phật hỏi: Đối với sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh, tử hạng hạ cùng ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tằng hội, ngũ ấm thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng nên có vui.
Thế Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người, sanh hạng thượng là trên Trời.
Nếu lại có người hỏi rằng: Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ không vui.
Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời phải trả lời thế nào?
Thế Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh một trượng đầu mà đã tưởng là vui.
Nếu lúc đánh trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng: Nơi trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui?
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời ông nói. Do nghĩa này nên không có tưởng là vui, vì như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người này bèn sanh lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng là vui.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Người đó chẳng vì bị đánh một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng vui.
Này thiện nam tử! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích Ma Nam trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải mâu thuẩn vậy.
Này thiện nam tử! Có ba thọ và ba khổ.
Ba thọ là: Lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ.
Ba khổ là: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ.
Này thiện nam tử! Khổ thọ chính là cả ba món khổ: Khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ và hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ. Đại Bồ Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Này thiện nam tử! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì Chư Phật Bồ Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Chư Phật và Bồ Tát nếu tùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng?
Như Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc làm đã xong đây là rất vui.
Lời nói thọ vui trong các Kinh như vậy, chừng có hư vọng chăng. Nếu là hư vọng, thời Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ kiếp tu hành đạo Bồ Đề đã lìa vọng ngữ.
Nay Phật nói như vậy ý nghĩa thế nào?
Này thiện nam tử! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước kia chính là cội gốc của đạo bồ đề, cũng có thể trưởng dưỡng vô thượng bồ đề. Do nghĩa đó nên trong những Kinh trước nói tướng vui như vậy.
Ví như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có thể làm nhân cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, san hô, chân châu, kho đựng lúa gạo, những vật như vậy người đời cần dùng có thể làm nhân cho sự vui nên gọi là vui.
Này thiện nam tử! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ. Nhân nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn đến phải chết cho người nam. Nhân nơi rượu, đồ ăn ngon, nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng rốt ráo vui.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nơi tám điều khổ này, hiểu rõ là khổ nên không bị khổ.
Này thiện nam tử! Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng biết nhân của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn bèn có thể biết nhân của sự khổ sự vui này.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát tập đế?
Đại Bồ Tát quán sát Tập đế là nhân duyên Ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái luyến nơi hữu.
Ái có hai thứ: Một là ái thân mình, hai là ái đồ cần dùng.
Lại có hai thứ: Năm thứ dục lạc, lúc chưa đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm trước.
Lại có ba thứ: Dục ái, sắc ái, vô sắc ái.
Lại có ba thứ: Nghiệp nhân duyên ái, phiền não nhân duyên ái, khổ nhân duyên ái.
Người Xuất Gia có bốn thứ ái: Y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang.
Lại có năm thứ: Tham lam nơi Ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan tính phân biệt vô lượng vô biên.
Này thiện nam tử! Ái có hai thứ: Một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các vị Bồ Tát cầu nơi thiện ái.
Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp nhị thừa gọi là bất thiện. Cầu pháp đại thừa gọi là thiện.
Này thiện nam tử! Kẻ phàm phu tham ái gọi là tập chẳng gọi là đế. Sự ái của Bồ Tát thời gọi là thật đế chẳng gọi là tập, vì Bồ Tát muốn độ chúng sanh nên thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Như trong các Kinh khác Đức Phật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhân duyên, hoặc nói kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhân duyên mà có ngũ ấm xí thạnh. Hôm nay do nghĩa gì Đức Phật nói bốn Thánh Đế riêng lấy ái làm nhân cho ngũ ấm.
Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói, các nhân duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải nhân, chỉ vì năm ấm cần phải nhân nơi ái. Ví như Quốc Vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết sử cũng đi theo.
Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó. Ví như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn quán sát kỹ ái này có chín thứ: Một là như thiếu nợ, hai là như vợ La Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn độc vấn, bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm là như dâm nữ, sáu là như hột Ma Lâu Ca, bảy là như thịt thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như thiếu nợ là thế nào?
Ví như người nghèo cùng thiếu tiền của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng bồ đề.
Như vợ La Sát là thế nào?
Ví như có người lấy gái La Sát làm vợ, gái La Sát này hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào?
Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Vật thực độc mà cố ăn là thế nào?
Như có người cố ăn vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng sanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như dâm nữ là thế nào?
Ngư người ngu tư thông với dâm nữ, dâm nữ này thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như hột Ma Lâu Ca là thế nào?
Nếu chim ăn hột Ma Lâu Ca, phẩn chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ Tát.
Thịt thúi trong mụn nhọt như thế nào?
Như người bị ung nhọt, trong nhọt sanh thịt thúi, người bệnh này phải chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng có thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanh trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như gió bão là thế nào?
Gió bão có thể làm lở núi ngã cây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ, có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng bồ đề của các ông Đại Trí Xa Lợi Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như sao chổi là thế nào?
Như sao chổi mọc thời trong thiên hạ phải bệnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng thiếu thốn sanh bệnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mang nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Bất động Lợi ích - Phần Năm - Niết Bàn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tử Nhục
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Mười - Mười Pháp - Phẩm Ba - Phẩm Lớn - Phần Mười - Kosalà
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Chuyện Hai Cậu Cháu
Phật Thuyết Kinh Cựu Tạp Thí Dụ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bốn - Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp - Kinh Vị Tằng Hữu Pháp