Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Mười
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN TÁM
THẬP NHẤT DIỆN
QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH
TẬP MƯỜI
Ở phía trên Tượng ấy, gần hào quang, hai bên trái phải đều có hai pho Tu Đà Hội Thiên. Vị Trời ở gian bên phải tấu âm nhạc của Càn Thát Bà cúng dường. Vị Trời ở gian bên trái rải tán hoa, hương cúng dường Bồ Tát.
Lại hai bên của hào quang hoa đều có bốn con chim trợ giúp cúng dường. Bên trái có hai con chim Tần Già đi kèm nhau đều đứng. Tiếp theo phía sau có hai con chim Anh Vũ đi kèm. Bên phải có hai con chim công đi kèm, tiếp theo phía sau có hai con hạc trắng đi kèm.
Bên dưới Tòa của Tượng ấy, gian bên trái lại có hai vị Bồ Tát, toàn thân màu đỏ, làm hình dạng thiếu niên, dung nhan đoan chánh, khuôn mặt mập mạp, đầu tóc cắt ngắn như làm màu đỏ.
Trên mặt, tại Tam Tinh có một con mắt trời. Thiên Nhãn. Từ sau lưng có một con rắn trắng ló ra hướng về bên trái, ngóc đầu chuyển lên cao, nhìn hướng về khuôn mặt của Bồ Tát này. Tay phải co duỗi, tay trái để gần vú cầm hoa sen, mặc áo lót một mảnh màu xanh, quần ngắn nhỏ bằng lụa mỏng màu trắng, cột thắt trên eo lưng, đứng mà chẳng ngồi.
Vị Bồ Tát ở gian bên phải, toàn thân màu vàng, mặc quần màu mây hồng lúc bình binh, chắp tay nâng cao, ngồi trên hoa sen tím, ngửa mặt nhìn bức Tượng rồi làm cúng dường. An bày mặt đất màu xanh lục.
Hai bên Tượng ấy có cây Bồ Đề. Bodhi vṛkṣa. Ở trên cây ấy có hoa Lăng Tiêu quấn nhau rơi xuống.
Bên dưới Tòa dùng nhóm màu xanh, xanh lục, vàng, đỏ, tím… làm đất báu xong pháp vẽ Tượng Quán Thế Âm Tỳ Câu Tri Bồ Tát Tam Muội Pháp Ấn Chú Phẩm Ấn có hai mươi mốt, Chú có bốn mươi bốn.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Đức Phật ở trong thành Vương Xá. Rāja gṛha nói các pháp Ấn Đà La Ni Chú cùng với vô lượng Đại Chúng Bồ Tát với vô số chúng Hiền Thánh Trì Chú cùng đến dự, trước sau vây quanh, đi đến chỗ của Đức Phật. Đṇ chỗ của Đức Phật xong, cúi năm vóc sát đất đảnh lễ bàn chân của Đức Phật. Lễ bàn chân của Đức Phật xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có Tâm Chú tên là Tỳ Câu Tri. Bhṛkuṭī, thần thông bí mật thâm sâu vi diệu, đủ các pháp ấn với Đàn Tràng pháp, hộ trì thế gian khiến khắp chúng sanh, người, phi nhân được miễn lìa các khổ, tất cả chúng sanh được lợi ích ấy. Nay con muốn nói. Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe hứa cho con nói.
Thời Đức Phật khen rằng: Lành thay! Lành thay thiện nam tử! Ông vì tất cả chúng sanh cho nên muốn nói pháp Ấn Đà La Ni Đàn. Ta trợ giúp ông, vui vẻ tùy theo ý ông nói.
Lúc đó, các chúng Bồ Tát đồng hội thảy đều vui vẻ, cùng một lúc khen Lành thay! Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát nương theo thần lực của Phật, liền nói Ấn Chú.
Tỳ Câu Tri Đại Thân Pháp Ấn Chú thứ nhất: Trước tiên, xếp bày ngược hai ngón út đều ở trên lưng ngón vô danh. Tiếp theo, đều xếp bày ngón vô danh ngay trên lưng ngón giữa. Hai cổ tay dính nhau, dựng hai ngón giữa trụ đầu nhau. Dựng hai ngón cái, hai ngón trỏ rồi hơi co ngón trỏ ấy giống như thế chẳng co lại, đưa ngón trỏ qua lại.
Nếu hai ngón trỏ co lại hết, tức là Hoa Tòa Ấn Chú là:
Na mô tát bà đát tha già để phiếu a la ha đà phiếu tam miệu tam Bồ Đề phiếu Úm bả dã na tát nễ đát la tát nễ đát la tây đát la tát gia tỳ lê câu tri đá tri bội di đá tri bội di đá tri bội la đề bội la đề thấp bế đê già trí ni sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu khi muốn tụng thời có thể làm Thân Ấn, chí Tâm tụng thì Chư Phật nghe thấy thảy đều khen ngợi.
Nếu các Bồ Tát nghe thấy
Chú Âm đều sanh vui vẻ
Chư Thiên nghe thấy thảy đều đảnh lễ
Tất cả Kim Cang nghe thấy
Chú Âm thảy đều sợ hãi
Nếu các quỷ thần nghe thấy
Chú Âm đều sanh hoảng sợ.
Tất cả chúng sanh trong sáu đường nghe thấy thì tất cả đều phát Tâm Bồ Đề. Bodhi citta. Kẻ chịu khổ ở trong địa ngục nghe thấy đều được ngưng dứt tất cả sự đau đớn pháp ứng như vậy.
Tỳ Câu Tri Đại Tâm Chú thứ hai.
Dùng Thân Ấn Chú là:
Úm tỳ lê câu tri câu tri ha.
Tỳ Câu Tri Trung Đại Tâm Chú thứ ba.
Dùng Thân Ấn Chú là:
Úm tỳ lê câu tri một đà nễ sách.
Tỳ Câu Tri Tiểu Tâm Chú thứ bốn.
Dùng Thân Ấn Chú là:
Úm Tỳ lợi.
Tỳ Câu Tri Trung Tiểu Tâm Chú thứ năm.
Dùng Thân Ấn Chú là:
Úm Tỳ lợi câu tri sa ha.
Thỉnh Tỳ Câu Tri Lai Chú thứ sáu.
Dùng Thân Ấn Chú là:
Úm Tỳ lợi câu tri sa ha.
Tỳ Câu Tri Nhất Thiết Dụng Chú thứ bảy.
Dùng Thân Ấn, cũng gọi là Đại Tâm Chú Chú là:
Úm bát ma bạt, thời lợi nễ ô hồng phán.
Tỳ Câu Tri Đảnh Chú thứ tám.
Dùng Thân Ấn, cũng gọi là Đầu Chú Chú là:
Úm trí nễ sa ha.
Nếu có người trì tám loại Chú của nhóm Đại Chú lúc trước. Khi muốn làm pháp đều nên đồng dụng pháp Thân Ấn lúc trước thì mọi loại có hiệu nghiệm Tỳ Câu Tri Hương Lô Pháp Ấn Chú thứ chín Ấn là thứ hai, chú là thứ chín.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa hai ngón cái nắm hai ngón trỏ, co lóng trên của hai ngón trỏ trụ đầu nhau Chú là:
Úm tứ,câu lô câu lô tỳ xà duệ sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm pháp, tụng Tỳ Câu Tri Bồ Tát Chú thời nên dùng Ấn này ấn vào lư hương với ấn vào hương xong, sau đó đốt hương.
Tay bưng lư hương, tâm miệng phát nguyện: Nay vì việc… cúng dường xong rồi, tiếp theo ấn vào nước hương.
Tỳ Câu Tri Hương Thủy Pháp Ấn Chú thứ mười Ấn là thứ ba, Chú là thứ mười. Phạm Âm nói là Càn Đà Đạt La Độ Ba. Gandha dhara dhūpa.
Tay phải đem năm ngón tay nắm duỗi, co khuỷu tay, cạnh bàn tay ấn trên nước hương.
Không dùng tay trái Chú là:
Úm Bồ Đề bồ đà bát để du đạt nễ sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm pháp, tụng Chú thời làm Ấn ấn vào nước, tụng Chú bảy biến, đem nước rưới vảy trên đầu, thân… cũng dùng Pháp Chú này cúng dường Chư Phật, các hàng Bồ Tát. Tiếp theo, làm việc Pháp Hộ Thân, Ấn Chú Tỳ Câu Tri Hộ Thân Pháp Ấn Chú thứ mười một Ấn là thứ bốn, Chú là thứ mười một Lật nghiêng che hai tay, kèm dựng hai ngón cái.
Đầu ngón tay tựa như cánh chim Chú là:
Úm tỳ bỉ nễ ha.
Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này hộ thân của mình. Tiếp theo làm kết giới Tỳ Câu Tri Kết Địa Pháp Ấn Chú thứ mười hai Ấn là thứ năm, Chú là thứ mười hai.
Hai tay: Từ ngón giữa trở xuống, cài ngược nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, lưng ngón tay nắm lòng bàn tay, kèm nghiêng hai ngón cái cùng trụ nhau dựng thẳng.
Co hai ngón trỏ cùng nắm móng ngón dựa lưng nhau, đem hai ngón cái trụ mặt đất Chú là:
Úm bội di đá tri ô hồng.
Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này ấn lên mặt đất, tịch trừ tất cả hết thảy các nhóm ma ác, thần quỷ ở trên mặt đất, ở dưới mặt đất.
Tiếp theo, làm Tứ Phương kết giới Ấn Chú.
Tỳ Câu Tri Kết Tứ Phương Giới Pháp Ấn Chú thứ mười ba Ấn là thứ sáu, Chú là thứ mười ba. Phạm âm là Ba La Ca La. Parakara.
Trước tiên, nghiêng bàn tay phải để năm ngón tay dính nhau. Đem bàn tay phải đè trên cánh tay trái, lưng bàn tay dính nhau.
Đem ngón cái phải móc ngón tay trái, tùy theo Mặt Trời chuyển theo bên phải Chú là:
Úm bà di đá tri ô hồng.
Chú này đồng với Địa Giới Chú Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này xoay theo bên phải ba vòng, hướng về bốn phương nhiễu quanh… tịch trừ hết thảy tất cả nhóm Ma, Quỷ Thần ở bốn phương. Tiếp theo, làm Thượng Phương Giới Ấn Chú Tỳ Câu Tri Kết Thượng Phương Giới Pháp Ấn Chú thứ mười bốn Ấn là thứ bảy, Chú là thứ mười bốn.
Hai tay đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống cài ngược nhau, bên phải đè bên trái, lưng ngón tay nắm lòng bàn tay. Nghiêng hai đầu ngón cái cùng trụ nhau, co hai ngón trỏ, móng tay cùng bám trụ nhau, đem đầu ngón cái đảo đến trên đảnh đầu, đừng chạm vào đảnh đầu.
Chú là:
Úm đá tri ô hồng.
Pháp Ấn Chú này hay trừ hết thảy tất cả các Ma, nhóm quỷ thần ác ở ttrong hư không trên Trời. Ngay khi muốn làm pháp, tụng Chú thời chỉ hộ Thân, kết giới, lại không có chỗ sợ hãi. Mọi thứ muốn làm pháp Tỳ Câu Tri. Bhṛkuṭī thì không có khó khăn trở ngại, đều có thần nghiệm.
Tỳ Câu Tri Sư Tử Tòa pháp Ấn Ấn là thứ tám, dùng Đại Tâm Chú. Phạm âm nói là Tư Dăng Già Tán Na. Siṃhayāsana.
Hai tay đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh cùng hợp đầu nhau. Hợp cổ tay, dựng thẳng hai ngón út cách nhau khoảng nửa thốn 1/6dm, co hai ngón cái vào bên trong lòng bàn tay. Nếu lại hướng ra ngoài dựng thẳng hai ngón cái thì gọi là đi đến.
Tỳ Câu Tri Hoan Hỷ pháp Ấn Ấn là thứ chín, dùng Đại Tâm Chú.
Hai tay đều co ngón út, đem hai ngón cái đều đè lên móng ngón út, bung duỗi các ngón còn lại. Tay phải duỗi thẳng cánh tay, tay trái che dính trên ngực, đứng lên co đầu gối phải, thân ở bên phải, nghiêng bàn chân trái dựng thẳng. Nếu hai bàn chân cách nhau khoảng bốn xích 4/3m tức là Sứ Giả Ấn. Nếu hô gọi đến thì dùng ngón trỏ phải co lại liền đến, giương duỗi ra liền đi.
Một pháp Ấn này đánh tất cả Quỷ với A Tu La. Asura. Nơi chỗ dùng đều được đại nghiệm.
Nếu người ác làm tất cả pháp muốn đi đến gây hại thì làm Ấn Chú này thảy đều chẳng thành.
Tỳ Câu Tri Cúng Dường pháp Ấn Ấn là thứ mười, dùng Đại Tâm Chú. Bản Phạn ghi là A Già Mẫu Đà La. Argha mudra.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón cái, mở đầu ngón cách nhau khoảng hai thốn rưỡi 5/6dm nếu kèm co hai ngón cái vào lòng bàn tay tức là pháp đến, đưa hai ngón cái ra tức là pháp đi.
Một pháp Ấn này. Nếu dùng mọi loại hoa, hương, thức ăn uống cúng dường Tam Bảo, kèm làm Ấn này mà cúng dường sẽ được phước vô lượng, tất cả Bồ Tát đều rất vui vẻ.
Tỳ Câu Tri Tùy Tâm pháp Ấn Ấn thứ mười một, dùng Đại Tâm Chú.
Co hai ngón vô danh tại lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Đều dựng hai ngón út, hai ngón giữa dính nhau. Co hai ngón trỏ đều phụ bên dưới lóng thứ nhất của ngón giữa. Co hai ngón cái nắm cạnh lóng bên dưới của ngón trỏ.
Một pháp Ấn này. Khi muốn cúng dường thời nên làm Ấn này, tụng Đại Tâm Chú thì Tỳ Câu Tri hiện thân trước mặt hành giả, khiến cho hành giả nhìn thấy, đều tùy theo điều đã nguyện khiến cho xứng với tâm đã mong cầu.
Tỳ Câu Tri Thí Dữ Nhất Thiết Thực pháp Ấn Ấn thứ mười hai, dùng Đại Tâm Chú. Phạm âm nói là Bà Lợi. Baliḥ.
Ngửa hai bàn tay, duỗi tám ngón tay, để ngón út đến bên cạnh cổ tay cùng nắm nhau, đều co hai ngón cái, đầu ngón dính ở chính giữa lòng bàn tay.
Một pháp Ấn này, ấn lên các thức ăn uống chứa đầy bên trong, rồi đem bố thí cho hàng Thần Hộ Pháp, tất cả chúng sanh thì tất cả người được đều sanh vui vẻ. Dùng năm Ấn lúc trước cùng đồng tụng Đại Tâm Chú lúc trước thì mọi loại có hiệu nghiệm.
Tỳ Câu Tri Hoa Cúng Dường pháp Ấn Ấn thứ mười ba, Chú thứ mười năm. Chắp tay lại, trong lòng bàn tay trống không.
Co hai ngón trỏ ở bên trong lòng bàn tay, hiện hai ngón cái kèm dựng đừng nắm dính ngón trỏ Chú là:
Úm thất lý trí la súc di tô bà la để bát la đế hột lý sắt nõa ma du ba chỉ đăng, bố sử sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu làm việc pháp của Quán Thế Âm Tỳ Câu Tri Bồ Tát đều cần phải làm Ấn này cúng dường mong được tất cả Bồ Tát vui vẻ.
Tỳ Câu Tri Hương Cúng Dường Chú. Chú thứ mười sáu, Ấn dùng Hoa Cúng Dường.
Ấn Chú là:
Úm bát la để hột lý sắt nõa đỗ ma la câu lê sa ha.
Tỳ Câu Tri Diệt Tội Chú. Chú thứ mười bảy, Ấn dùng Hoa Cúng Dường Ấn.
Úm a địa ấp địa tỳ ha la nễ ba la đề sa ha.
Hai Chú pháp này. Nếu làm pháp Tỳ Câu Tri đều đồng làm Hoa Cúng Dường Ấn lúc trước, tụng hai Chú này thì tất cả Chư Phật nghe Chú này đều sanh vui vẻ, ắt được trừ diệt vô lượng kiếp tội.
Tỳ Câu Tri Vạn Lý kết giới Cúng Dường Chú. Chú thứ mười tám, dùng Pháp Thân.
Ấn Chú là:
Úm hột lý sắt nõa ti ô hồng phất.
Một Chú này. Nếu muốn làm các Đạo Tràng, kết chỗ của Pháp Đàn, rộng làm cúng dường, sợ các việc ma thì có thể dùng kết Pháp Thân Ấn lúc trước, tụng Chú này thời liền được pháp thành Tỳ Câu Tri Tác Đàn Nê Địa Cúng Dường Chú. Chú thứ mười chín, dùng Hương Thủy Ấn.
Chú là:
Úm đế thệ, đế xà bà để.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Biện đại Thừa - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Tăng Già Tra - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Sáu - Phẩm Tá Trợ
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Tám - Phẩm Nhân Duyên Của Bà đề Lợi Ca - Phần Hai