Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BẢY
PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM
PHẦN BỐN
Này Vô Biên Huệ! Nếu còn ở nơi sự tướng mà mặc giáp trụ, thì trọn chẳng gọi rằng mặc đại giáp trụ, vì Chư Đại Bồ Tát chẳng ở nơi sự tướng mà cầu đại trí tuệ nên gọi là mặc đại giáp trụ.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Trong vô lượng kiếp
Mặc giáp lớn vô biên
Vì muốn cho chúng sanh
Giải thoát các khổ não
Giáp trụ lớn như vậy
Hoặc ma hay ma sứ
Và kẻ tạo nghiệp ma
Mắt họ chẳng thấy được
Cùng với những chúng sanh
Đi nơi rừng chấp kiến
Họ cũng chẳng thấy được
Giáp trụ bất tư nghị
Giáp trụ này không sắc
Không hình không đối đãi
Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
Mắt thường chẳng thấy được
Không danh cũng không tướng
Rời xa tất cả tướng
Giáp trụ này vô biên
Nên không tướng thấy được
Giả sử tên như núi
Đồng loạt nhắm bắn vào
Giáp trụ bất tư nghị
Khiến tên tự gãy nát
Tất cả ma trong đời
Cũng mang tên như núi
Nhắm ngay đại giáp trụ
Đồng loạt bắn thẳng vào
Nhưng đại giáp trụ này
Chẳng tổn chừng đầu lông
Giáp trụ bất tư nghị
Chẳng gì phá hư được
Vì thế nên Bồ Tát
Thân Tân chẳng biến đổi
Giáp trụ bất tư nghị
Ai làm khuynh đọng được
Bồ Tát bất tư nghị
Nếu dùng một tâm niệm
Muốn dẹp trừ chúng ma
Quân ma liền lui tan
Đại giáp trụ như vậy
Chưa từng có động lay
Tất cả các chúng sanh
Không ai có thể thấy
Tất cả các chúng sanh
Chẳng biết tướng giáp trụ
Vì thế các chúng sanh
Mắt họ chẳng thấy được
Bồ Tát làm chỗ dựa
Biết được tất cả pháp
Dường như thắng kim cương
Đây là người khéo mặc
Chẳng thọ tất cả pháp
Cứu hộ các chúng sanh
Thuận theo pháp của Phật
Đây là người khéo mặc
Giáp trụ không chổ lấy
Tuỳ thuận tất cả pháp
Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
Đây là người khéo mặc
Giáp trụ không thị hiện
Trị sạch tất cả pháp
Các pháp rời ngôn thuyết
Không ai thị hiện được
Chẳng tương ưng với sắc
Thọ, tưởng, hành và thức
Cũng đều chẳng tương ưng
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với nội
Chẳng tương ưng với ngoại
Chẳng tương ưng nội ngoại
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với xứ
Chẳng tương ưng với giới
Hoặc trong xứ, trong giới
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với địa
Chẳng tương ưng thủy, hỏa
Phong và không cũng vậy
Chẳng tương ưng chẳnh hiệp
Chẳng tương ưng Dục Giới
Sắc Giới, Vô Sắc Giới
Cũng đều chẳng tương ưng
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Tất cả vô sở đắc
Chẳng cùng các hữu tác
Chẳng cùng các vô tác
Tương ưng và hòa hiệp
Giáp trụ bất tư nghị
Không ở không hòa hiệp
Không buộc không giải thoát
Cũng không chẳng tương ưng
Giáp trụ không biên tế
Chẳng cùng Thanh Văn địa
Chẳng cùng Độc Giác địa
Tương ưng và hòa hiệp
Nhẫn đến Chư Phật địa
Và cùng tất cả pháp
Tất cả chẳng tương ưng
Tất cả chẳng hòa hiệp
Tất cả đường ngôn ngữ
Không có thể đến được
Vì giáp trụ vô biên
Không thể, khó nghĩ bàn
Nên chẳng cùng tất cả
Tương ưng chẳng tương ưng
Giáp trụ bất tư nghị
Vượt quá tất cả số
Giáp trụ này vô thượng
Không buộc không chẳng buộc
Cũng không có tướng sắc
Tướng thọ, tưởng, hành, thức
Chẳng cùng các tướng ấy
Tương ưng và hòa hiệp
Chẳng cùng các Pháp Tướng
Tương ưng chẳng tương ưng
Cũng chẳng cùng vô tướng
Tương ưng và hòa hiệp
Giáp trụ này vô thượng
Không buộc không giải thoát
Trong tất cả các pháp
Chẳng vào một pháp nào
Trong tất cả các pháp
Giáp trụ bất khả đắc
Vì thế nên vô thượng
Gọi là bất tư nghị
Giáp trụ không có sắc
Không thọ cũng không tưởng
Không hành cũng không thức
Chẳng nhiếp trong các uẩn
Bậc dũng mãnh như vậy
Mặc đại giáp trụ này
Thân tâm vô sở đắc
Chẳng thấy chút pháp nhỏ
Vì vượt quá nghĩ suy
Tâm thanh tịnh an trụ
Mà thường không khiếp nhược
Gọi là bất tư nghị
Mặc giáp trụ kiên cố
Tâm mình không lay động
Chẳng kể số lương kiếp
Gọi là bất tư nghị
Giáp trụ không số luợng
Chẳng lấy pháp phi pháp
Vì không có thời lượng
Nên gọi bất khả lượng
Chẳng khởi chúng sanh tưởng
Cũng không có ngã tưởng
Vì biết được tưởng này
Tất cả tưởng chăng sanh
Cũng biết tất cả pháp
Pháp ấy đều vô tướng
Mặc giáp trụ như vậy
Gọi là bất tư nghị.
Đức Phật phán tiếp: Lại này Vô biên Huệ! Đại giáp trụ ấy có tên là Diệu Pháp nghiêm cụ trang nghiêm, cũng tên là tối thượng bất khả hoại, cũng tên là nhất thiết pháp vô sai biệt, vì chẳng làm sai biệt chút pháp nào.
Chư Đại Bồ Tát mặc giáp trụ ấy, giữ sức đại trí huệ ngồi nơi đại thừa, tối thượng thừa, vô đẳng đẳng thừa, đại nhiếp thọ thừa, vô biên nhiếp thọ thừa.
Tất cả chúng sanh ngồi nơi thừa này, thì trong thừa này đều dung thọ tất cả, mà thừa này chẳng hề tăng giảm, có thể làm cho chúng sanh đều an vui mà ở, cũng làm cho chúng sanh an vui mà ra. Nếu có chúng sanh nào ngồi nơi thừa quyết định an vui này thì thân tâm họ không có nhọc mệt lao khổ.
Này Vô Biên Huệ! Đại Thừa này chói che tất cả thế gian Thiên, Nhân, A Tu La, Thanh Văn, Duyên Giác và các thừa khác mà sẽ xuất ly.
Đại Thừa này không đến, không đi, không ở, không thấy, không biết, lúc trước bất khả đắc, lúc sau bất khả đắc, lúc giữa bất khả đắc, ba đời bình đẳng, dường như hư không chẳng nhiễm tạp bụi trần, không có chối đãi, không có chướng ngại, cũng không chấp trước. Vì do thừa này mà sẽ xuất ly.
Đại Thừa này vô lượng vì chẳng lường được.
Đại Thừa này vốn không tướng chướng ngại vì chẳng ở nơi tướng.
Đại Thừa này tối thượng đệ nhất. Người ngồi thừa này không có tâm khiếp nhược mà hướng đến vô thượng Chánh Giác.
Này Vô Biên Huệ! Thừa này như ngọn đèn, như mặt nhật mặt nguyệt làm ánh sáng lớn cho các chúng sanh. Đại thừa này cũng vậy, ánh sáng của nó chiếu khắp Cõi Đại Thiên không gì che không gì chướng ngại được, có thể dùng biển lớn công đức vô biên mà hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Đại Thừa này không tối trừ được bệnh của tất cả thế gian, vượt quá tất cả pháp thế gian nhiếp lấy chúng sanh lớn, chẳng phải các chúng sanh hạ liệt mà có thể ngồi được, chỉ trừ người có thể mặc đại giáp trụ, như ta đã nói người ở trong vô lượng kiếp cứu hộ chúng sanh cúng dường Chư Phật trồng các cội lành tư lương thanh tịnh thì có thể ngồi được.
Những hàng Thanh Văn, Duyên Giác và các hạng hạ liệt bị ràng buộc ở thế gian tương ưng với thế gian, hoặc hạng tăng thượng mạn, những ngoại đạo bất tín, họ còn chẳng muốn nghe tên của đại thừa này huống là có thể ngồi nơi đại thừa này.
Nếu có chúng sanh nào dạo đi trong cảnh giới bất tư nghị, ngồi ở đại thừa này rồi như nguyện thù thắng của mình mà hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Đại Thừa này không thời gian biên tế, sơ tế, trung tế và hậu tế chẳng thể biết rõ được. đại thừa này tế đoạn bất khả đắc. Vô biên tế là thừa tế này, vô lượng tế là thừa tế này.
Này Vô Biên Huệ! Thừa này vô biên tế, cũng không có trung tế, không có chút ít tế mà có thể đoạn dứt được. Nói là tế đoạn dứt, bởi vì không có chút ít tế nên nói là tế đoạn, vì chẳng phân biệt tế nên nói là tế đoạn, như thế gọi là tế đoạn của đại thừa này.
Tế vô số hữu mà nói là trung tế, tế vô sở hữu mà nói là biên tế, tế vô sở hữu mà dùng tế để nói. Ở trong tế ấy, tế bất khả đắc.
Vì là bất khả đắc nên biên tế, trung tế không có tế không có đoạn mà nhập vào tế môn. Vì nhập vào tế môn nên thừa này vượt quá nơi đó. Vượt quá này cũng vô sở đắc.
Này vô biên Huệ! Những gì là tế?
Đó là đoạn thường tế, vì vào trong ngôn ngữ vậy, nên tế là chẳng phải tế. Đoạn thường tế ấy chẳng có biên tế, bởi tướng của tế ấy là tướng vô biên vậy. Nói là tế không có phân biệt, vì dứt phân biệt, nên vượt quá nơi tế rời xa đoạn thường.
Này Vô Biên Huệ! Người có thân kiến thì ở nơi tế môn có chỗ y chỉ. Nếu là người không có thân kiến thì ở nơi tế môn không có cha trước. Vì không có chấp trước nên có thể vượt quá đoạn thường tế.
Này Vô Biên Huệ! Đoạn thường tế ấy không có thiệt, chỉ là lời nói phỉnh phờ ở trong ba cõi phân biệt có hai tế đoạn và thường. Đối với hai tế ấy, nếu chẳng nắm lấy, nếu chẳng tương ưng mới có thể vượt quá chấp kiến đoạn thường ở nơi hai tế môn mà không chỗ chấp trước.
Này Vô Biên Huệ! Nếu Đại Bồ Tát chưa rời thân kiến thì chẳng gọi là mặc giáp trụ ngôi nơi đại thừa, với tế môn kia là có chấp trước. Dầu có muốn dứt tế lại khởi tưởng niệm dứt tế, lại là có phân biệt tiền tế hậu tế.
Nếu Đại Bồ Tát đã rời thân kiến thì gọi là mặc đại giáp trụ ngồi nơi đại thừa, với tế môn ấy chẳng có chỗ chấp đã vượt quá hai tế dùng thừa an lạc mà hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát dùng sức đại trí huệ, ở nơi tất cả pháp trụ tế, có thể chẳng đoạn chẳng phá mà phương tiện khôn khéo nhiếp lấy chỉ quán tu tập vô tướng, được chứng vô tướng thì được Chư Phật trao cho ánh sáng pháp. Do ánh sáng pháp mà tất cả tế đoạn dứt.
Đối với tế đoạn ấy cũng không nắm lấy, không có chút ít tế nào ở môn kia hoặc là tương ưng hay chẳng tương ưng, hoặc ghi nhớ hay chẳng ghi nhớ. Với tất cả pháp, phương tiện khôn khéo an trụ ở chỉ quán bèn được vô biên ánh sáng đại pháp.
Vì ánh sáng đại pháp nên rời xa tói tăm bố úy mà dụng đại pháp tràng, phát đại phạm âm, rống Đại Sư tử mà bảo chúng sanh rằng: Mọi người mau đến nơi đại thừa này, đại an lạc thừa này, đại điều ngự thừa này, đại phát thu thừa này để hướng đến vô thượng bồ đề.
Đại Bồ Tát vì chúng sanh mà diễn ánh sáng pháp. Vì ánh sáng pháp có thể làm cho chúng sanh mặc đại giáp trụ ngồi đại thừa này.
Này Vô Biên Huệ! Đại Bồ Tát ở nơi đại thừa này, ở nơi đại giáp trụ này chớ có lòng lẫn tiếc, nên nguyện cầu cho chúng sanh phát tâm Bồ Đề mặc giáp trụ này và ngồi đại thừa này.
Các chúng sanh ấy ở nơi đại thừa và đại giáp trụ này cũng chớ lẫn tiếc mà phải luân chuyển khuyến cáo chúng sanh khác, lại cũng nguyện cầu các chúng sanh mặc giáp trụ và ngồi đại thừa này để được xuất ly.
Lúc Chư Đại Bồ Tát an trụ trong hạnh nguyện ấy, các Ngài nhiếp thủ Phật Quốc, thanh tịnh Phật Quốc, nhiếp thủ Thanh Văn và Chư Bồ Tát để được viên mãn công đức. Do biển đại công đức vô biên này mà hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Đại Thừa này đồng với pháp giới, bờ này hay bờ kia đều không có gì để được, nhưng có thể vận tải tất cả chúng sanh từ đây đến ở trong pháp giới, tương ưng với pháp giới, tương ưng với giáp trụ không có chỗ tương ưng. Nếu ở nơi đại thừa đồng pháp giới này mà chuyên cần tu tập thi hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Như Pháp Giới không có nhiễm bụi trần, không ai phá hoại được, không gì nhiễm được. Cũng vậy, đại thừa này không bị hoại, không bị nhiễm. Vì không hoại không nhiễm nên sẽ đến nhất thiết chủng trí. Vì thế nên thừa này tên là đại thừa. Thừa này vô ngại, tất cả Thiên, Nhân, A Tu La ở thế gian chẳng làm thối chuyển được.
Do vì thừa này không chấp trước nên sẽ đến nhất thiết chủng trí, vì thế nên thừa này tên là đại thừa. Gọi là đại thừa có nghĩa là đại trang nghiêm. Tất cả trang nghiêm đều vào trong đại thừa này.
Vô Biên Huệ Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Trong đại thừa này há lại có những trang nghiêm hữu vi ư?
Đức Phật phán: Này Vô Biên Huệ! Đúng như vậy. Ta tùy thuận thế tục nên ở trong đại thừa này cũng nói tất cả trang nghiêm hửu vi.
Này Vô Biên Huệ! Như Chuyển Luân Vương, Đế Thích và Phạm Vương đều từ đại thừa này xuất sanh, hoặc đã xuất sanh, hoặc sẽ xuất sanh, dầu ở ngôi tôn quý mà chẳng bị lỗi lầm sanh tử phiền não làm nhiễm trước, có thể ở nơi ngũ dục mỗi mỗi đều vừa chừng. Đã vừa chừng rồi thì nhàm bỏ mà có thể biết rõ được đạo xuất ly.
Nếu Chư Đại Bồ Tát ngồi đại thừa này dầu thọ lãnh sanh tử nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà thấy được sự lỗi lầm có thể biết xuất ly.
Nếu ở nơi đây ta chưa nói các pháp và các trang nghiêm, do tướng của thừa này, Chư Đại Bồ Tát ấy cũng có thể biết được các pháp và các trang nghiêm kia mà hướng đến vô thượng bồ đề.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đại thừa vô thượng thừa
Thừa này bất tư nghị
Nếu ai ngồi thừa này
Đều sẽ được xuất ly
Thừa này bất tư nghị
Vô lượng vô biên tế
Là chỗ y chỉ lớn
Nên gọi là đại thừa
Tất cả các chúng sanh
Ngồi nơi đại thừa này
Thừa này vẫn không giảm
Cũng lại không có tăng
Tất cả các chúng sanh
Ngồi nơi đại thừa này
An lạc mà hướng đến
Trong ấy không khổ não
Nếu Chư Đại Bồ Tát
Từ thừa này hướng đến
Thẳng tiến không làm khác
Thân tâm chẳng mỏi nhọc
Soi sáng khắp thế gian
Trời, Người, A tu la
Sẽ ở đại thừa này
Mà hướng đến vô thượng
Chói che các Duyên Giác
Và các Thanh Văn thừa
Ở nơi đại thừa này
Mà hướng đến vô thượng
Không lai cũng không khứ
Không trụ không tiền tế
Không hậu tế trung tế
Không được không chỗ thấy
Ba đời đều bình đẳng
Dường như trong hư không
Thừa này cũng như vậy
Rời xa các phiền não
Thừa này không đối đãi
Không chướng cũng không ngại
Hay cứu tất cả loài
Chỗ hướng không chấp trước
Thừa này không có lượng
Cũng không tất cả tướng
Tự tánh bất khả đắc
Vô úy chẳng nghĩ bàn
Có ai ngồi thừa này
Thì được vô sở úy
Ở trong Chư Phật Pháp
Không chướng cũng không ngại.
Dùng thừa này hướng đến
Chiếu sáng khắp thế gian
Như mặt nhật sáng lớn
Không lúc nào chẳng chiếu
Thừa này chẳng hoại được
Không gì che chói được
Vô lượng đức tư lương
Mà hướng đến vô thượng
Thừa nấy siêu thế gian
Ra khỏi hẳn ba cõi
Rời xa các tối tăm
Thẳng đến quả vô lậu
Thừa này chỉ nhiếp lấy
Tất cả Chư Bồ Tát
Còn các chúng sanh khác
Trong ấy chẳng dung thọ
Nếu có người trí huệ
Trong vô lượng ngàn kiếp
Siêng to tân phương tiện
Mới ngồi được thừa này
Thanh Văn và Duyên Giác
Tất cả hàng ngoại đạo
Tiểu trí và tà kiến
Chẳng ngồi được thừa này
Nếu có các chúng sanh
Hướng đến nơi phi đạo
Hạng này kém phước đức
Chẳng kham nghe thừa này
Nếu có các chúng sanh
Với pháp bất tư nghị
Khôn khéo mà do hí
Ngồi được đại thừa này
Tùy theo họ kiến lập
Những thệ nguyện thù thắng
Ở trong chánh đạo này
Mà hướng đến vô thượng
Thừa này không biên tế
Cũng không có trung tế
Biên tế và trung tế
Thảy đều bất khả đắc
Bởi tế bất khả đắc
Nên thừa này không tế
Vì tất cả tế đoạn
Nên an lạc hướng đến
Thừa này vô biên tế
Vô biên là thừa tế
Thừa này vô lượng tế
Vô lượng là thừa này
Thừa này vô tế đoạn
Vô tế là tế đoạn
Chẳng phân biệt nơi tế
Đoạn cũng chẳng thể được
Thừa tế không biên tế
Cũng không có trung tế
Cũng không tế không tế
Tế tánh vô sở hữu
Nơi tế không tế tướng
Chẳng phải tế làm tướng
Ở trong các tế ấy
Tế tướng vô sở hữu
Chẳng phải tế nói môn
Thừa này đã vượt quá
Ở chỗ quá lượng kia
Tương ưng bất khả đắc
Ta nói đoạn thường tế
Hữu biên vô biên tế
Tất cả tế như vậy
Tế kia chẳng phải tế
Tất cả tế vô biên
Tế tướng vô sở hữu
Tự tánh tất cả tế
Trong ấy chẳng phân biệt
Trong các tế như vậy
Vì dứt nơi phân biệt
Nên biên cùng vô biên
Tất cả đều được dứt
Nếu còn có thân kiến
Thì nói các tế môn
Chấp trước các tế ấy
Là người không chỗ dựa
Nếu không có thân kiến
Chẳng chấp các tế môn
Là bậc đại trí huệ
Có thể nơi các tế
Đều vượt quá tất cả
Do đây trong Phật Pháp
An lạc mà hướng đến
Bồ Tát khéo quán sát
Hay dùng sức trí tuệ
Chẳng có được chút pháp
Dứt được trừ diệt được
Thường dùng phương tiện khéo
Khéo nhiếp lấy chỉ quán
Vì biết rõ một tướng
Các tướng đều biết rõ
An trụ ở chánh pháp
Được ánh sáng đại pháp
Do pháp quang minh này
Quyết xong các tế kia
Chẳng thấy có chút tế
Là tế hay phi tế
Chỗ tương ưng được kia
Không chấp trước tất cả
Nếu thấy chúng sanh khổ
Khuyến dụ mà bảo rằng
Ngươi đến nơi thừa này
An vui mà xuất ly
Thọ sanh ở chốn nào
Hay làm ánh sáng pháp
Mặc giáp ngồi đại thừa
Cũng đem đây khai thị
Thừa này giáp trụ này
Chớ có lòng luyến tiếc
Cũng khiến các chúng sanh
Mặc giáp ngồi đại thừa
Ngồi thừa an lạc này
Mà hướng đến vô thượng
Chư Bồ Tát như vậy
An trụ đây tu hành
Hay ở trong Phật Pháp
Mau hướng đến vô thượng
Thanh tịnh Chư Phật Quốc
Nhiếp thọ Chư Thanh Văn
Và các chúng Bồ Tát
Sự công đức trang nghiêm.
Đức Phật phán tiếp: Này Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa lúc ta tu Bồ Tát hạnh, ta mặc giáp trụ như vậy và ngồi đại thừa như vậy, vượt quá các tế, diệt được tối tăm, trừ được bố úy, ở nơi chỗ vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha Chư Phật, dùng sức đại tinh tiến nghe giáp trụ trang nghiêm và đại thừa trang nghiêm này của Đại Bồ Tát, ta vui mừng hớn hở.
Lúc ta quan sát pháp ấy, đối với Đức Phật Thế Tôn ta cung kính tôn trọng, chẳng nghĩ tưởng rằng ta mặc giáp trụ như vậy, ta có giáp trụ như vậy, ta được pháp như vậy, ta có pháp như vậy, ta có các loại pháp như vậy. Lúc ấy ta không có quan niệm có ngã, ta rời xa thân kiến, rời xa ngã mạn, lòng không có cao hạ, không có phân biệt.
Vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sanh, hộ trì Pháp Tạng của Chư Phật Như Lai, thành thực vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh, ta không hề có một tâm niệm mỏi nhọc.
Lúc ấy ta chẳng bỏ giáp trụ, ngồi vô biên thừa. Trong nhiều đời ta có thể phá quân ma. Các quyến thuộc ma đều thối bại tiêu diệt. Các sứ giả ma kinh sợ bỏ chạy.
Tất cả hàng ngoại đạo và những phái tương ưng với dị đạo đều bị ta hàng phục, đặt họ vào chỗ an ổ. Tất cả dị luận ta đều dẹp trừ. Tất cả ngoại đạo đều hàng phục ta. Những chúng sanh xu hướng đường tà, ta làm cho họ ở nơi thừa này trồng các cội lành. Ta vì các chúng sanh mà khai thị giáp trụ và giáp trụ trang nghiêm.
Ta cũng vì các chúng sanh mà diễn thuyết các loại pháp đại thừa an lạc như vậy.
An trụ trong thừa này thì được tất cả đồ dùng an vui, đó là đồ dùng an vui hữu vi: Chuyển Luân Vương, Đế Thích và Phạm Vương. Cũng được đồ dùng an vui vô vi. Lúc ta vì các chúng sanh nói pháp này, ta làm cho các chúng sanh vào trong pháp ấy phát sanh chủng tánh Chư Thánh, dựng tràng đại pháp, rống tiếng sư tử mà hướng đến vô thượng bồ đề.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Cam Lộ
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Quảng Tụ đà La Ni - Phẩm Mười Chín - Phẩm Chú Sư Tự Trước Chú Tác
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thất đạo Phẩm - Phần Hai