Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Bảy - Pháp Hội Bảo Kế Bồ Tát - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BỐN MƯƠI BẢY
PHÁP HỘI BẢO KẾ BỒ TÁT
PHẦN BỐN
Này Bảo Kế! Sở dĩ gọi là giác phẩm vì biết rõ các pháp không gì chẳng thấu suốt, phân biệt đúng đắn hiểu rành chỗ đến, biết đúng oai nghi lễ tiết khai hóa chúng sanh, tùy họ ở chỗ nào thân mình siêng tu rộng thì hành đạo nghĩa trừ bỏ kiết phược kiến chấp.
Giác phẩm này là công hạnh của Thánh Hiền chẳng phải chỗ tu tập của ngu phu. Nói là Thánh hạnh chẳng phải chỗ làm của ma, chẳng phải chỗ làm của kẻ cống cao tự đại, chẳng phải hàng ngoại đạo dị học đến được. Thánh hạnh là chẳng hành nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Thánh hạnh là không dính mắc các tướng nhân duyên. Thánh hạnh là không lựa chọn xứ sở phương diện có quên có mất. Thánh hạnh là công hạnh không có tâm ý thức niệm tưởng ngôn ngữ. Thánh hạnh là rời lìa kiến văn trí thức. Thánh hạnh là không có tạo tác ý niệm tư tưởng Niết Bàn.
Lại nữa, nơi tất cả pháp đều không có sở hành là Hiền Thánh hạnh. Tu theo Kinh Điển không có tất cả đúng chẳng đúng, niệm chẳng niệm, cũng không có ý tưởng khác là Hiền Thánh hạnh.
Nơi tất cả pháp trọn không có sở trụ chẳng mộ tôn xứ sở là Hiền Thánh hạnh.
Nơi tất cả pháp trọn chẳng lầm loạn thuận hành chánh nghĩa đều riêng được thành tựu là Hiền Thánh hạnh.
Nơi tất cả pháp chưa hề tránh tụng hòa đồng cùng ở là Hiền Thánh hạnh. Phụng hành các pháp không có pháp tưởng chẳng mất đạo ý là Hiền Thánh hạnh.
Ðây là Bồ Tát tu bảy giác phẩm hạnh thanh tịnh của Hiền Thánh vậy.
Ðức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Thế nào là Bồ Tát tu tám chánh đạo thanh tịnh?
Một là chánh kiến.
Sao gọi là chánh kiến?
Bồ Tát nếu hay phụng hành tất cả pháp, nơi ngã chẳng phải ngã chẳng an trụ không quán.
Tại sao?
Vì xét thân ngô ngã bình đẳng không có sai biệt. Cũng chẳng an trụ quán thân nhân không.
Tại sao?
Vì thân nhân và không cũng là bình đẳng. Cũng chẳng an trụ quán thân thọ mạng cùng với không sai khác nhau.
Tại sao?
Vì nhân thọ mạng với không vẫn bình đẳng. Cũng chẳng thấy những sanh tử rời lìa nghĩa thỉ chung không vô.
Tại sao?
Vì các sanh tử thỉ chung họa hoạn cùng sở kiến không vô đều bình đẳng vậy. Chẳng an trụ quán không đoan diệt thường kiến có ngô có ngã.
Tại sao?
Vì đoạn diệt với thường kiến đều bình đẳng vậy. Cũng chẳng chấp lấy thân và sở quán không cũng chẳng an trụ nơi đó.
Tại sao?
Vì thân ngô ngã và không đều bình đẳng vậy. Cũng chẳng an trụ nơi công hạnh thấy Phật Pháp Tăng quán sát không.
Tại sao?
Vì thấy Phật Pháp Tăng và sở quán không đều bình đẳng vậy.
Bồ Tát có thử kiến bỉ kiến quán sát đến tịch diệt bình đẳng, đây là chánh kiến thấy Phật Pháp Tăng. Còn tà kiến kia chẳng rời lìa điên đảo vậy.
Nếu ở nơi các chỗ thấy mà không có tưởng niệm thượng hạ trung gian thì là chánh kiến.
Tại sao?
Vì nơi sở kiến đều quán sát bình đẳng vậy.
Nếu thấy pháp phàm phu cho là ti tiện, còn pháp mình tu học cho là tôn cao, quan niệm như vậy cho là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu cho là ô uế, thấy pháp Bồ Tát là thanh tịnh, quan niệm như vậy là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là hữu lậu, thấy pháp vô học là vô lậu, quan niệm như vậy là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu có cầu ăn mặc, thấy pháp Duyên Giác không mong cúng dường, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy ý Tiểu Thừa có hy vọng, ý Bồ Tát không hy vọng, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là phóng dật, thấy pháp Bồ Tát là vô dục, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là sự hữu vi, thấy Chánh pháp Phật là đạo vô vi, quan niệm như đây là tà kiến.
Này Bảo Kế! Nếu Bồ Tát hay quan niệm pháp phàm phu cho đến tất cả pháp đều bồn lai thanh tịnh, các học pháp cũng bổn tịnh, quán các pháp đều tự nhiên mới là chánh kiến vậy.
Pháp phàm phu là không, pháp được học cũng là không, rõ pháp sở học là không mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu bình đẳng với nhân duyên, hiểu rõ như đây thì pháp Duyên Giác, nhân duyên cũng bình đẳng, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu vốn là tịch tĩnh, pháp Bồ Tát cũng là tịch tĩnh, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu không chỗ thành tựu, pháp Chư Phật cũng không cứu cánh, đây mới là chánh kiến.
Người chánh kiến thì tâm chẳng nhập vào hai pháp, chẳng thấy hai pháp, nhân cũng không có hai, chẳng thấy ngô ngã, đây là chánh kiến.
Không có bao nhiêu thứ thấy, chẳng lấy bao nhiêu thứ làm có thấy sai khác là thấy bình đẳng, thì chẳng tưởng niệm tất cả các pháp có thượng trung hạ, nơi tất cả pháp mà không có tưởng niệm mới là chánh kiến.
Người chánh kiến không có bao nhiêu sự thấy cũng không sở kiến, không có sở kiến mới là chánh kiến.
Chỗ quan sát được ấy không có hình sắc, do thấy các pháp không có hình sắc mới là chánh kiến.
Bồ Tát này quán sát tất cả các pháp như thế ấy mới gọi là người ban tuyên pháp luật vậy.
Ðức Phật nói lời trên đây xong, trong pháp Hội có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận ý giải.
Ðức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Hai là chánh niệm.
Sao gọi là chánh niệm?
Gọi rằng chánh niệm là trừ bỏ các niệm cùng chẳng niệm đồng hiệp hội tịch tĩnh mà quán tỏ trí đức đến pháp tịch diệt, hiểu rõ sở quán thấy rành các pháp, gì là pháp gì là phi pháp, biết các pháp đều riêng sai khác chẳng thân cận nhau.
Do hiểu rõ như vậy nên bình đằng còn chẳng niệm huống là niệm sai biệt ư!
Nơi tất cả niệm không có niệm không có chẳng niệm, không còn tư lự không đúng không chẳng đúng, đây gọi là chánh niệm.
Ba là chánh ngữ.
Sao gọi là chánh ngữ?
Bồ Tát lúc nói chẳng tự thấy thân mình, chẳng thấy người khác, chẳng thấy kia đây, chẳng phạm thân mình cũng chẳng hại nơi người, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, Bồ Tát lúc nói, bình đẳng hiểu các pháp, biết tất cả các pháp đến nơi diệt tận, biết tất cả pháp về nơi pháp Hiền Thánh và giải thoát, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, chánh ngữ là phụng hành từ tâm bi mẫn tất cả, thân và thù không có khác, chánh ngữ ấy cũng là không vô tướng vô nguyện đều vô tác vô sanh vô khởi, bình đẳng diễn nói các pháp vô thượng khổ không chẳng phải thân tất cả các pháp không có ngã nhân thọ mạng.
Bình đẳng diễn nói các pháp theo ý duyên khởi, trồng giống nào thì được quả ấy. Bồ Tát bình đẳng chỉ dạy chúng sanh tuyên giảng Kinh Pháp khiến nó hành Phật đạo. Ðược chánh ngữ thanh tịnh thì được tất cả Chư Phật mười phương ủng hộ.
Ðây là chánh ngữ.
Bốn là chánh nghiệp.
Thế nào là chánh nghiệp?
Bồ Tát tiêu hóa tất cả nghiệp đã gây tạo chưa hề làm lại cơ bổn nghiệp hoặc. Công nghiệp được tu là diệt trừ khổ não. Việc làm thường ngày đều thấy hư giả. Chẳng hưng tạo tà nghiệp, rời lìa trần lao, không có uế trược. Bồ Tát hiểu rõ chánh nghiệp và các pháp, nơi các cội công đức không có tạo tác để tu đức hạnh thì gọi là vô tác là không hư. Ðây gọi là Bồ Tát hành vô thượng làm chánh nghiệp vậy.
Năm là chánh mạng.
Thế nào là chánh mạng?
Bồ Tát chẳng thấy có ngã chẳng thấy có nhân, đây là chánh mạng. Người có chánh mạng thì chẳng tích tụ tất cả trần lao. Bồ Tát chánh mạng thì hay thanh tịnh tu tập chí nguyện chúng sanh, chí nguyện đã thanh tịnh thì chẳng tự chấp thân chấp nhân cũng không có thọ mạng, mình người bình đẳng, tất cả pháp cũng bình đẳng, thật hành pháp nghĩa thanh tịnh. Ðây là chánh mạng.
Sáu là chánh phương tiện.
Thế nào là chánh phương tiên?
Bồ Tát chẳng làm sự phi pháp, lòng chẳng bỏ công đức. Phương tiện được làm đúng như lời đã nói, chẳng thấy các pháp đồng cùng dị, không có tác không có chẳng tác.
Ðúng như pháp tánh mà thật hành, pháp của Chư Phật cũng như vậy, đều là tịch tĩnh, nhân đó làm phương tiện. Các pháp đều bình đẳng không có sai biệt, chỗ làm cũng bình đẳng. Vì các chúng sanh mà trừ tà phương tiện, khuyến trợ họ đến nơi trí huệ. Ðây là chánh phương tiện vậy.
Bảy là chánh ý.
Thế nào là chánh ý?
Bồ Tát nhớ Phật đạo, nhớ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí huệ, từ bi,hỉ hộ. Ân cần gìn ý chẳng cho có uế ác trần lao, chẳng theo ma nghiệp.
Bồ Tát ý niệm chỗ nào đều chẳng sa vào tà kiến chế ngự ỳ niệm của mình như người gác cửa biết rành lúc nên mở nên đóng, trừ bỏ tất cả ý niệm xấu ác, không hề có tư tưởng, chẳng cho có tà niệm, đây là chánh ý.
Bồ Tát đã ở nơi chánh ý này thì chẳng ở trong đạo tánh tịch diệt mà lấy quả chứng. Ðây là Bồ Tát chánh ý hạnh thanh tịnh.
Tám là chánh định.
Thế nào là chánh định?
Bồ Tát tùy thuận Hiền Thánh hạnh, biết khổ đế đoạn dứt tập đế chủng, chứng tận đế chủng, phụng đạo đế chủng, đây là chánh định.
Bồ Tát chánh định, tự thân bình đẳng các pháp cũng đều bình đẳng, tự thân thanh tịnh các pháp cũng đều thanh tịnh, tự thân không hư các pháp cũng đều không, chánh ý chánh thọ, được như đây thì nhập vào bình đẳng chẳng sa vào diệt tận. Trong khoảng phát tâm chỗ sở hành đều bình đẳng đầy đủ trí huệ và tất cả Thánh phước, tỏ rành các pháp. Ðây là Bồ Tát chánh định hạnh thanh tịnh.
Lúc Đức Phật nói chánh định giác phẩm, một ngàn sáu trăm Chư Thiên và Nhân từng ưa thích Tiểu Thừa đã được ngộ nhập pháp này nên đều phát tâm vô thượng chánh chân.
Ðức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát thủ hộ giác ý nuôi nấng tâm mình chẳng để sanh khởi, trừ dâm nộ si, bỏ đấm trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành và thức không dính mắc ba chỗ, độc hộ trong Tam Giới, qua ba cửa giải thoát, đến ba đạt trí, thấy quá khứ vị lai hiện tại không chướng ngại.
Khai độ chúng sanh trừ sạch cấu uế, như mặt nhật sáng không chỗ nào chẳng được soi tỏ, thiện quyền phương tiện trí huệ tùy thời nghi mà thị hiện đi khắp ba đời khai hóa tất cả chúng sanh làm cho họ phát đạo tâm, như hoa sen trong nước. Ðây là Bồ Tát hộ trì giác đạo ý hạnh thanh tịnh.
Ðức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Thế nào là Bồ Tát thành tựu thần thông làm hạnh thanh tịnh?
Bồ Tát lại do năm sự thấy suốt đầy đủ chứng được quang minh gọi là thiên nhãn: Soi khắp mười phương chỗ rất kính tối không đâu chẳng thấy rõ, thấy tất cả Phật khai hóa độ thoát nhiều loài, xa thấy chúng sanh sau trước hướng đến trang nghiêm ý chí.
Thấy hết mười phương có tất cả hình sắc tượng mạo chủng loại tốt xấu, dài ngắn, lớn nhỏ, thiên nhãn ấy không hề bị chướng ngại, ý niệm tịch diệt vô vi hơn cả hàng Bát Bộ Thiên Long, Thanh Văn, Duyên Giác và cũng thấy suốt bổn mạt của họ. Ðây là thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát.
Này Tộc Tánh Tử! Lại do năm sự Bồ Tát thành tựu nghe biết suốt hết tất cả gọi là Thiên Nhĩ. Nghe biết âm thanh của tất cả loài người, nghe suốt âm thanh của tất cả phi nhân, cũng nghe tất cả âm thanh đau khổ của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cũng nghe âm thanh thuyết pháp của tất cả Phật mười phương, tất cả ngôn ngữ âm từ sai khác chẳng đồng, vạn ức thứ âm thanh khắp tất cả mười phương đều nghe rõ được hết. Ðây là Thiên Nhĩ thanh tịnh của Bồ Tát.
Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát biết các tâm niệm có năm sự: đều biết rõ được gốc ngọn của nghiệp nhân các loài trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, tâm niệm thiện ác của họ, đến đời sau hoặc thấy họ thọ thân, biết tâm niệm họ hướng về đâu suốt quá khứ vị lai hiện tại quyết định chỗ đến về nơi tà nghiệp, tâm niệm của tất cả chúng sanh và nghiệp hành thiện ác đều biết rõ, xét tâm ý của chúng sanh hoặc có tham dâm, sân hận, ngu si tùy theo bổn hạnh của họ mà thuyết pháp. Ðây là hạnh thanh tịnh biết các tâm niệm của Bồ Tát.
Này Tộc Tánh Tử! Thế nào là Bồ Tát biết đời quá khứ có năm sự: Biết rõ đời trước ai có thọ những dâm nộ si thì đều tự nhiên, thọ mà chẳng chú ý suy nghĩ gây ra sự việc ấy, lại biết rõ thân mình từ vô số đời chuyên suy gẫm về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí huệ, từ bi, hỉ xả, do nơi định ý ấy mà được thân này, cũng là từ nơi mình gây nên, những ai chấp ngô ngã tâm niệm nhân duyên quán sát các tướng.
Tướng nhân duyên ấy cũng tự mình làm mà tự nhiên thọ, nhớ biết như vậy rồi tùy theo thân hình quyến thuộc thế lực danh xưng hào quý hay bần tiện khổ vui cũng tự mình tạo, đều tự nhiên làm mà thọ lấy họa hoạn ấy. Ðây là thần thông thanh tịnh biết rõ thân tâm đời quá khứ của Bồ Tát.
Này Tộc Tánh Tử! Cũng có năm sự Bồ Tát đầy đủ thần túc: Thị hiện mọi sắc thân thần thông tự tại, thị hiện mọi thanh âm thần thông tự tại, thấu suốt tâm ý và hành nghiệp của các loài thần thông tự tại, thần túc cùng khắp làm cho tất cả chúng sanh vui sướng, thần túc đều riêng biệt người gần gũi được thấy, thần túc đến khắp mọi nơi, ngồi một chỗ mà thấy vô số Quốc Độ mười phương, đi khắp cảnh giới của tất cả Phật, tùy theo tập tục của tất cả chúng sanh mà hiện thân hình khắp mười phương thuyết pháp cho họ làm cho họ được thông hiểu phát tâm Bồ Đề. Ðây là thần túc thanh tịnh của Bồ Tát.
Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát huệ nhãn có đủ thiên nhãn thanh tịnh không hề chấp trước, cũng đủ Thiên Nhĩ trước sau thanh tịnh không hề chướng ngại, liền biết rõ tất cả tâm niệm của mọi loài chúng sanh, biết rõ cả đời quá khứ hiện tại vị lai, an trụ hạnh vô vi vô tác hết hẳn nghiệp hữu lậu sanh tử bèn đủ thần túc thanh tịnh thần thông tự tại, đây là cửa Thánh huệ lậu tận. Ở đây Bồ Tát dùng năm thần thông ấy mà tự vui thích, tâm Bồ Tát chẳng an trụ nơi huệ lậu tận.
Này Tộc Tánh Tử! Ví như đường sá cách xa cư ấp trăm ngàn do tuần có quốc thành lớn. Con đường ấy gian hiểm nhiều nạn khó kể hết, nào có dốc cao hố sâu quanh co chật hẹp, nào là giặc cướp, Sư Tử, cọp sói, chúng ác thú trở lại ăn giết nhau. Nếu ra khỏi con đường dữ ấy thì đến được quốc thành. Người vào thành thì thoát khỏi các họa nạn an ổn vô lượng.
Bấy giờ có một người nghe quốc thành kia, người này liền bỏ đứa con trai yêu quý lại mà đi, hết sức siêng năng chịu đựng các sự gian nguy khổ nạn ngày đêm chẳng biếng trễ, được gặp bóng mát, thân đủ sáu nghề, tay cầm năm món binh khí vượt khỏi đường hiểm đến bên cửa thành, đứng trên ngạch cửa rồi lần bước lên đến từng cửa thứ hai mở cửa thành ra rồi đứng lại đó, thoạt nhớ đến đứa con trai yêu quý chưa được đến quốc thành, vì ân tình cha con nên người này chẳng vào thành, mà vội trở lại cư ấp mang đứa con trai cùng đến quốc thành an lạc ấy.
Này Tộc Tánh Tử! Cũng vậy, Bồ Tát mặc giáp vô cực, dùng chí ý tinh tiến vững chắc thuần thành hiển phát đại đạo trừ sạch tâm nghiệp, công hạnh thuần thục lành tốt, hết các lậu khởi đại bi, vì chúng sanh mà thuyết pháp khai hóa cho họ. Bồ Tát này có trí huệ dứt trừ các lậu hết hẳn sanh tử thành tựu cứu cánh, vì lòng từ bi muốn cứu vớt chúng sanh nên lại vào sanh tử hiện thân ở hạng phàm phu.
Này Tộc Tánh Tử! Quốc thành ấy dụ cho Thánh huệ vô thượng hết hẳn các lậu. Con đường hiểm nạn xa trăm ngàn do tuần là nói trải qua vô lượng sanh tử họan nạn độ thoát chúng sanh chẳng lấy làm khổ. Trộm cướp cọp sói là nói các ma tà kiến những nạn phi pháp.
Ăn giết lẫn nhau là nói họa hoạn, thân ngữ ấm suy hư trong Tam Giới. Gặp được bóng mát là nói công hạnh bình đẳng. Sáu nghề và năm món binh khí là nói sáu Ba La Mật và năm thần thông.
Người này đến thành đứng trên ngạch cửa, từ cửa ngoài lần bước đến cửa trong rồi đứng lại mà chẳng tiến vào, là nói Bồ Tát từ hữu vi đến vô vi các lậu đã hết, tâm sáng suốt chẳng bỏ bổn nguyện muốn độ chúng sanh mười phương như nhớ đến đứa con trai duy nhất vậy.
Chẳng vảo thành mà trở lại cư ấp, là nói Bồ Tát thương xót tất cả chúng sanh trong lòng nhớ mến họ như người cha nhớ con một. Bồ Tát đã diệt trừ họa nạn các lậu sanh tử siêu việt an trụ nơi pháp đảnh, dầu đã ra khỏi sanh tử mà chẳng dứt hết các lậu, liền trở lại ở tại lục đạo để khai hóa chúng sanh. Ðây là hạnh đại bi thiện quyền phương tiện của Bồ Tát vậy.
Bấy giờ Bảo Kế Bồ Tát bạch rằng: Ðấng Thiên Trung Thiên chưa từng có!
Bồ Tát Đại Sĩ lòng chứa đại bi muốn độ chúng sanh chẳng thích giải thoát xem như tay mình trở lại sanh tử mà chẳng chán ghét.
Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát tuân tu pháp gì mà chẳng chán ghét sanh tử?
Ðức Phật dạy: Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát có hai mươi sự chẳng chán ghét sanh tử.
Những gì là hai mươi sự?
Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát phụng hành đức bồn đến được đại từ vô thượng, chấp trì để nhiếp nguy nạn lớn. Hoài bảo đại bi nhiếp kẻ mê ác, khai hóa chúng sanh cứu độ tất cả. Thường dùng tinh tiến nhiếp kẻ khiếp liệt.
Dùng tánh hòa nhẫn nhiếp người hận thù. Dùng quyền phương tiện nhiếp kẻ chẳng biết tiết độ. Phải dùng trí huệ nhiếp kẻ ngu tối. Dùng nhất tâm nhiếp người phóng dật. Hay dùng thần thông nhiếp kẻ chẳng thông. Hay dùng Thánh minh nhiếp những ám tắt. Hay dùng tùy thời nhiếp những vô nghĩa. Dùng ý chuyên tư duy nhiếp kẻ phiền não. Tuân phụng tâm đạo nhiếp kẻ chẳng học.
Mà thi hành tứ ân nhiếp kẻ không được cứu giúp. Dùng bố thí nhiếp bần cùng. Cung kính giới luật nhiếp các vô lễ. Dùng học rộng nhiếp ít trí. Dùng tổng trì nhiếp hay quên. Dùng biện tài nhiếp ngu độn. Dùng thượng đức nhiếp vô phước. Bồ Tát do hai mươi sự này mà thành đại trí huệ chẳng chán ghét sanh tử vậy.
Bảo Kế Bồ Tát lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát nên ở nơi sanh tử vì vô số người mà làm lợi ích?
Ðức Phật dạy: Này Tộc Tánh Tử! Nếu như Bồ Tát dùng đức để trang nghiêm thì nên ở sanh tử, dùng phước nhuần thấm kẻ nghèo thiếu nguy ách. Học rộng trang nghiêm thì nên ở sanh tử, dùng biện tài đem nhiều lợi ích hay gìn ý chí chẳng vội quên. Ðến được tổng trì thì nên ở sanh tử làm cho tất cả mọi người đều có Văn Huệ. Ðến được bàn tay báu thì nên ở sanh tử đem sự bố thí tốt để tự trang nghiêm, của cải chẳng hao bớt làm nhiều lợi ích.
Lại chẳng phóng dật thì nên ở sanh tử, giảng pháp chẳng chán mỏi đem lại nhiều lợi ích cho tất cả mọi người. Lại bình đẳng họp các tướng hảo thì nên ở sanh tử, tu huệ trang nghiêm cho các chúng sanh.
Ngôn hành tương ưng thì nên ở sanh tử, việc làm đều đúng thời chẳng mất tiết độ có nhiều lợi ích cho các chúng sanh. Bố thí tất cả sở hữu lòng không hối tiếc bỏn xẻn thì nên ở sanh tử, tùy theo thời mà khai hóa đều được đúng chỗ, thí pháp Ba la mật nhiều sự lợi ích cho các chúng sanh.
Phụng giới thanh tịnh thì nên ở sanh tử, trang nghiêm trì giới đem nhiều lợi ích lại cho chúng sanh. Nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí huệ thì nên ở sanh tử, sáu Ba La Mật đem nhiều lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Này Tộc Tánh Tử! Thuở xa xưa vô ương số kiếp, có Đức Phật Hiệu Phổ Hoại Thế Như Lai Ứng Cúng Chi Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế Giới ấy tên Thiên Quán, kiếp tên Hân Dự.
Tại sao kiếp ấy tên Hân Dự?
Trong kiếp ấy có sáu vạn Đức Phật xuất thế, bấy giờ Trời Tịnh Cư dùng vô số âm thanh ban tuyên công đức của Phật, trong kiếp ấy có sáu vạn Phật, Chư Thiên và người đời đều ca tụng. Nghe tiếng ca tụng ấy không ai là chẳng vui mừng sanh lòng lành. Do cớ ấy mà gọi là Hân Dự.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Ba Mươi Bảy - Tăng Trưởng - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Quỷ Vấn Mục Liên
Phật Thuyết Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Phần Mười Sáu
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Tiểu Kinh Phương Quảng - Phần Mười Một - Kết Luận
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Bất động Lợi ích - Phần Năm - Niết Bàn
Phật Thuyết Kinh độ Thế Phẩm - Phần Hai Mươi Năm