Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai - Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm - Phẩm Thứ Ba - Thanh Tịnh đà La Ni - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ HAI
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM
PHẨM THỨ BA
THANH TỊNH ĐÀ LA NI
PHẦN MỘT
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn quan sát bốn phương hiện các thứ thần thông, dùng sức thần thông làm cho Chư Bồ Tát trong Pháp Hội được thấy vô lượng Chư Phật ở mười phương và nghe Chư Phật thuyết pháp.
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: Ông xem nơi tất cả pháp, Như Lai vô tác vô vi tịch tịnh, mà làm được tự tại thần thông như vậy, trí lực vô úy như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai tánh chẳng một chẳng khác, chẳng phải chẳng một chẳng khác, vì là vô sở hữu nên chẳng phải có chẳng phải không, không tự tánh chẳng phải không tự tánh, nên biết rằng Như Lai tánh nhẫn đến không có chút pháp gì là có thể được.
Thấy biết như vậy lại cũng không có chút pháp gì là có thể thấy biết. Đã chẳng thể thấy thời là không chỗ có cũng không chỗ lấy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai tánh không chân thật không chẳng chân thật. Nếu là chân thật và chẳng chân thật thời là có Như Lai tánh, không Như Lai tánh. Như Lai tánh lìa có lìa không, nhưng cũng chẳng từng lìa.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp tự tánh bổn tánh như hư không. Chư Phật Như Lai lúc chưa xuất thế, chưa từng có nói Pháp Môn như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi pháp này, nếu Chư Bồ Tát hiểu rõ như vậy, thời có thể phát sanh vô lượng biện tài, có thể diễn thuyết các pháp, thấu rõ đức vô úy của Phật.
Đức vô úy nói trên đây, nghĩa là được đức vô úy tối thượng của Như Lai, vì có thể đối với các pháp chẳng nhiếp thọ, chẳng tăng trưởng, chẳng thể được, chẳng khắp được, chẳng theo được.
Dầu Đức Như Lai ra đời hay chẳng ra đời, pháp vẫn chẳng tăng giảm, chẳng khắp tăng giảm. Tự tánh bổn tánh của các pháp vẫn thường trụ, là trụ tánh định tánh của pháp giới.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp trụ nơi định tánh của các pháp, vì bất khả đắc như vậy, nên tất cả pháp đều là hư vọng phân biệt, chẳng phải do nghiệp báo mà được thành, do đây nên có thể vào nơi môn tất cả pháp không nghiệp báo.
Vì các pháp không tự tánh như vậy, chẳng thật như vậy, nên các nghiệp đối với quả chẳng phải là nhân sanh diệt, nơi sự dứt trừ các thú các đạo cũng chẳng phải là nhân.
Đức Như Lai chỉ tùy theo thế tục, nói tất cả pháp có nhân có chẳng phải nhân, vì nhân tự tại, vì không có nhân, đây là đức vô úy của Như Lai. Vì Như Lai đầy đủ vô lượng biện tài nên được vào bậc đại vô úy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thế nào là vô úy?
Chính là bốn pháp vô sở úy của Như Lai. Bốn pháp vô sở úy này, hàng Duyên Giác còn không có được, huống là hàng Thanh Văn cùng các thế gian.
Những gì là bốn?
Một là, Đức Như Lai xướng rằng: Ta là Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, là bậc biết tất cả, thấy tất cả. Hoặc Trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận nói rằng Như Lai chẳng rõ biết được các pháp.
Do đây nên Như Lai được tối thượng vô úy, ở giữa đại chúng như sư tử rống, Như Lai có thể diễn thuyết giáo pháp Vô Thượng rộng lớn rất sâu.
Hai là, Như Lai xướng rằng ta là bậc dứt sạch tất cả lậu phiền não. Hoặc Trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng Như Lai chưa sạch hết các lậu.
Vì sạch hết các lậu, nên Như Lai có thể trụ nơi rốt ráo an lạc, khai thị Pháp Tạng Vô Thượng đã chứa nhóm từ vô lượng ức kiếp.
Ba là, Như Lai diễn thuyết đạo xuất ly, tu tập nơi đó, dứt hẳn tất cả khổ. Hoặc Trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng nơi đạo diệt khổ của Như Lai nói, tu tập theo đó chẳng được xuất ly.
Như Lai chẳng thấy tướng xuất ly nên được rốt ráo an lạc, rồi vì chúng sanh thị hiện pháp này, nên ở giữa chúng hội như sư tử rống.
Bốn là, Như Lai tuyên nói những pháp chướng đạo. Hoặc Trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng pháp chướng đạo của Như Lai nói là không chướng.
Vì chẳng thấy có pháp chướng đạo nên Như Lai trụ nơi an lạc tăng thượng, Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống. Như Lai có thể chuyển pháp luân Vô Thượng này, tất cả thế gian, hoặc Trời hoặc người đều không chuyển được.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là bốn pháp vô sở úy của Như Lai. Chư Bồ Tát tinh tấn tu học pháp này thời mau chứng được bậc vô úy, là bậc tối thắng trong người, trong Trời.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Bồ Tát vì khéo tu tập pháp không, nên có thể phát sanh môn biến thanh tịnh bất tư nghì. Do môn này, nơi tất cả pháp, Chư Bồ Tát tối sơ thấy rõ tất cả pháp đồng với tướng hư không, không hai không khác, tất cả pháp đều như vậy cả, nhưng với hư không, chẳng phân biệt cũng chẳng hí luận.
Chư Bồ Tát này được nghĩa thiện xảo: Không có chút pháp nào bị đem từ đâu lại, cũng chẳng đem đi đâu, cũng chẳng chứa nhóm. Do đây, Bồ Tát bèn có thể quan sát tất cả pháp không chứa nhóm, không đến không đi. Nơi tất cả pháp, làm mà không chỗ làm, thắp đuốc đại pháp, làm trí pháp cho các chúng sanh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem pháp này đem lại bao nhiêu là lợi ích, bao nhiêu là sự nghiệp cho Chư Bồ Tát! Chính là mười trí lực và bốn vô sở úy của Phật. Lại cũng không có chút pháp gì có thể được, cũng chẳng phải không được.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp đồng với tướng hư không. Vì để được lợi ích nên Như Lai khai thị diễn thuyết những quả báo cùng nghiệp nhân. Trong đó cũng không có được lợi ích.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! pháp thậm thâm này rất là khó tin đối với tất cả thế gian. Vì thế gian là diệt hoại, là hư vọng kiến lập, nên không thể tín thọ được pháp này, và cũng chẳng biết được.
Thế gian đều là phi pháp, do chấp trước nên nói có thế gian và chỗ an trụ. Giả sử nhẫn đến có quan niệm chấp nơi pháp, cũng không có pháp để có thể chấp được.
Do chấp trước nơi phi pháp, nên sanh ra sự tranh luận với Như Lai và pháp của Như Lai đã nói. Lại họ chẳng thể rõ tự tánh bổn tánh của tất cả pháp, lại trái với vô sanh pháp nhẫn. Vì thế nên họ không hiểu được giáo pháp thậm thâm này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai vì tất cả Trời, người, những hàng tin lời như thật, lời không hí luận mà khai thị diễn thuyết giáo pháp như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong đây đều không pháp thiện pháp bất thiện. Những pháp thiện bất thiện thảy đều tịch tịnh. Pháp thiện pháp bất thiện đều chẳng biết nhau. Pháp thiện pháp bất thiện chẳng chói che nhau.
Vì nhân duyên chấp trước pháp thiện pháp bất thiện, nên Như Lai nói tất cả pháp thảy đều vô ký, vì không thể được pháp thiện pháp bất thiện chân thật vậy. Nếu đã bất khả đắc thời là vô ký, vì trong đó không có nhân, không thấy được nhân.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát tất cả pháp thảy đều vô ký. Nếu có Chư Bồ Tát giác ngộ như vậy rồi thì đối với tất cả pháp, ngôn thuyết vô ký cũng là bất khả đắc.
Pháp Môn như vậy là vì Chư Bồ Tát như thật thấy pháp bất thiện, được xả viên mãn, chẳng trụ nơi pháp, do môn vô ký mà chứng nhập các pháp.
Môn vô ký này vẫn là chẳng phải môn. Nếu là phi môn thời là bất khả đắc. Nếu đã bất khả đắc thời đó là thanh tịnh. Đây là chỗ Chư Bồ Tát vào Pháp Môn thanh tịnh Đà La Ni. Do môn này, Chư Bồ Tát được trí huệ chiếu suốt tất cả pháp, không còn ngu ám mê hoặc dụ dự đối với tất cả pháp, và có thể được pháp trí vô ngại, huệ nhãn thanh tịnh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi trong pháp này phải nên cầu thích.
Thế nào là cầu thích?
Nghĩa là với tất cả pháp, không lấy, không chấp, rốt ráo lìa bỏ, siêu quá nhiếp tàng, không mong cầu. Chẳng quán đãi tất cả pháp hữu vi thế gian, thiện, bất thiện.
Đây là bậc bất phóng dật vô thương, bậc lìa phan duyên. Trong tất cả pháp, không đến không đi, không trụ, không kiến lập. Đây gọi là huệ nhãn thanh tịnh, vì rốt ráo bỏ lìa không chỗ chấp lấy. Khéo có thể quan sát bỏ lìa tất cả bổn tánh tự tánh thời gọi là huệ nhãn.
Huệ nhãn trên đây là trí tánh yểm ly diệt tận. Trí tánh này vốn vô sanh, vô tác, bổn tánh tịch tịnh, lại cũng chẳng tương ưng với tịch tịnh, vì đã dứt tương ưng, lại cũng chẳng phải đoạn dứt, chẳng phải không đoạn dứt, không thiếu không giảm.
Đây gọi là huệ nhãn thanh tịnh, là đạo không hí luận. Do thành tựu huệ nhãn này, dùng từ bi nhiếp thọ chúng sanh, khiến họ phát tâm.
Duyên nơi chúng sanh mà phát khởi vô lượng diệu hạnh, và có thể hiểu rõ tất cả pháp không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Bồ Tát này lúc chứng được vô thượng bồ đề, quyết định có thể khai thị diễn thuyết Pháp Tạng Vô Thượng, và có thể thanh tịnh môn Đà La Ni, vì làm cho giáo pháp theo chủng tánh của chúng sanh không đoạn dứt nên thiết lập pháp ấn.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn thanh tịnh Đà La Ni này, Chư Phật luôn nhiếp thọ khai thị diễn thuyết. Thập Phương Tam Thế Chư Phật cũng đều tuyên nói pháp môn này, vì Chư Bồ Tát mà khai thị pháp tánh tam thế bình đẳng. Do đây đối với các pháp trong ba đời có thể ngộ nhập pháp môn này. Vì thành tựu huệ tổng trì tam thế thanh tịnh.
Chư Bồ Tát này không có quan niệm thế gian, nơi pháp lành cùng pháp chẳng lành biết rõ không hai, không khác, các thiện căn được sanh trưởng, thân ngữ ý ba nghiệp thảy đều thanh tịnh, có thể khắp thanh tịnh vô lượng pháp môn.
Vì để được huệ thanh tịnh tổng trì, cũng có thể khai diễn giáo pháp thanh tịnh vô khởi vô tác, lại có thể khai thị tất cả pháp rốt ráo không tịch như hư không, lai có thể thị hiện trí huệ rộng lớn mà vì người khai thị trí thanh tịnh.
Cũng có thể khai thị tất cả pháp và bồ đề như tánh hư không mà vì người thị hiện đạo Nhất Thiết chủng trí thanh tịnh, lại có thể khai thị Đạo pháp thanh tịnh, tức là tùy sở nguyện được viên mãn bồ đề, có thể rõ biết chân chánh.
Diễn thuyết thật đế phương tiện thiện xảo, mà có thể tuyên thuyết đế lý vô phân biệt, có thể khai thị trí huệ của Chư Phật, vì tùy thuận giác ngộ tất cả nghĩa.
Nếu Chư Bồ Tát khéo tu học pháp này thời có thể mau thanh tịnh tư lương bồ đề, được trụ nơi bồ đề không có xa gần, chẳng trái với chút pháp gì, với các pháp hiện nói đây, cũng chẳng thấy xa gần, chẳng dùng pháp và phi pháp để thấy bồ đề, đã thông đạt bồ đề dứt tuyệt các sự hiển thị, có thể dùng nghĩa bình đẳng không hiển thị để biết rõ bồ đề.
Đến lúc quán nghĩa tịch tịnh của các pháp thời với bồ đề chẳng phân biệt, cũng chẳng thấy nghĩa tịch tịnh, nghĩa chẳng tịch tịnh, chẳng phải ngoài tịch tịnh mà thấy chẳng tịch tịnh, không có chút tưởng niệm là có năng quán năng kiến, có thể thấy thanh tịnh với tất cả chỗ, cũng không có chút gì có thể thanh tịnh. Đây là trí môn thanh tịnh của Chư Bồ Tát.
Do trí môn này, mà Chư Bồ Tát có thể tùy niệm môn Đà La Ni vô biên Pháp Tạng của Chư Phật Như Lai, khắp biết được bổn tánh tự tánh của các loài hữu tình, khai thị diễn thuyết các Pháp Tạng cho hữu tình, có thể khắp thanh tịnh các nghiệp trí huệ, các nguyện cầu nơi vô thượng bồ đề
Hiện bậc Đẳng Giác không thối chuyển, mau được tự tại đối với tất cả pháp, có thể tu tập đức đạt từ đại bi của Chư Phật, Pháp Tạng thiện xảo của tất cả Như Lai đều hiện ra trước, và có thể thị hiện vô lượng vô biên pháp quang rộng lớn, thân thường an trụ nơi trí cảnh của Chư Phật.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp Môn vô lượng vô biên này chỉ cho những pháp nào?
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp: Địa, thủy, hỏa, phong, hư không, thức giới đều vô lượng. Các hữu tình cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc đều vô lượng. Nhưng không có một chút hữu tình nào là khả đắc, khả tri, vì hữu tình là không.
Thật vậy, hữu tình giới này là bất khả đắc, bất khả tri, vì giới là không. Vì thế nên các pháp đồng Niết Bàn giới, thu nhập Niết Bàn.
Tất cả các pháp đồng hướng vào chỗ bất khả thuyết, vì nơi Niết Bàn giới, không có chút phần nào là khả thuyết. Trong Niết Bàn giới không chướng ngại, không che đậy, vì đã vĩnh viễn thanh tịnh chướng che vậy. Nên Niết Bàn giới là thanh tịnh, là rất thanh tịnh.
Niết Bàn giới này, cũng chẳng phải giới, vì xa lìa giới, vì không có giới, vì siêu quá giới, nhưng dùng tương tợ mà phương tiện nói là giới.
Giới đã nói đó là an tru phi giới và chẳng phải phi giới. Trong ngôn thuyết cũng không có giới, chỉ dùng ngữ ngôn để nói bày các pháp.
Ngôn thuyết cùng người nói đều bất khả đắc, bất khả tri. Tất cả ngôn thuyết đều là chẳng phải ngôn thuyết. Tất cả ngôn thuyết như vậy, như tánh hư không, đồng vào hư không. Do đây nên địa giới, thủy giới nhẫn đến hư không giới đều không thể ngôn thuyết, không lực dụng năng thuyết.
Thức giới đã nói đó, chỉ là dùng ngữ ngôn để thuyết bày các pháp, nhưng thức giới đó, giới cũng chẳng phải giới, chẳng vào các giới, chẳng tương ưng với giới cũng chẳng phải chẳng tương ưng, từ hư không sanh, vào nơi hư không.
Thức giới như vậy chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa. Tùy nhiếp thọ nơi phần hư không của nó mà hướng vào hư không, chẳng thể thi thiết, chẳng thể xem thấy.
Nếu nó đã là chẳng thể thi thiết thời nó không chỗ làm, trừ có duyên tương ưng nói là có thức giới. Đây là pháp môn của Bồ Tát chứng nhập. Tất cả pháp bổn tánh tự tánh như hư không.
Bởi y nơi pháp giới mà khai thị diễn thuyết, nhưng cũng không có giới của các pháp, vì giới mà chẳng phải giới, nên tất cả pháp như hư không. Do đây Như Lai nói tất cả pháp đều là hư không, vì khó được số lượng.
Hiển bày tất cả pháp đều hư không tánh, vì bổn tánh của các pháp như hư không, chỉ là dùng ngữ ngôn khai thị diễn thuyết thôi!
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem chỗ diễn thuyết từ nơi trí Như Lai thanh tịnh dường ấy. Giáo pháp thanh tịnh như vậy, không pháp có thể sanh, cũng không pháp truyền thọ. Đây là trí không điên đảo của Chư Bồ Tát.
Vì thế nên các ông cần phải cầu thích trí huệ không do người khác làm duyên, được vô phân biệt, chẳng thêm phân biệt, và có thể thanh tịnh được Pháp Môn lý nghĩa bất khả thuyết, vì do pháp trí thanh tịnh vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các loài phi điểu đi nơi đâu?
Bạch Thế Tôn! Loài phi điểu bay đi nơi hư không.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Hư không đi nơi đâu?
Bạch Thế Tôn! Hư không chẳng đi đâu cả.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phải lắm! Tất cả pháp như hư không, không có chỗ đi. Pháp đi không chỗ đi đều bất khả đắc. Vì thế nên các pháp không có chỗ đi, lại cũng chẳng đi. Bổn tánh của các pháp không có đi không có nói.
Vì muốn Chư Bồ Tát được trí hư không thanh tịnh, nên Như Lai chuyển pháp môn này. Đây là pháp môn vô biên quang minh, soi sáng cùng khắp vô lượng vô biên dường như hư không. Quang minh chiếu khắp đó cũng bất khả kiến. Chư Bồ Tát được pháp môn này rồi thời có thể quan sát khắp mười phương Thế Giới, và có thể liền thấy tất cả thế gian.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là cảnh giới sở tri của trí huệ Bồ Tát, cảnh giới thông đạt của trí Bồ Tát, chẳng phải cảnh giới của ngoại luận khác, vì họ không thể nói đến được.
Lý nghĩa của pháp này là bất khả thuyết, vì pháp ấn ngữ ngôn không thể hiển thị được. Vì thế nên tất cả pháp không ấn, cũng chẳng tăng ấn, vì rõ biết chẳng ấn mà khéo léo tu tập.
Dùng ấn hư không mà ấn tất cả pháp. Dùng ấn vô tướng có thể thị hiện hư không vô tướng kia không tướng hữu vi, không tướng ngữ ngôn.
Do vì không vô nên nói hư không này. Vì hư không đã nói đó không có thật thể nên nói là không. Cứ nơi chân thắng nghĩa, nên biết các pháp rốt ráo là vô ngôn thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay đây Như Lai sẽ nói Đà La Ni ấn: Những câu hay thanh tịnh, là những câu hư không. Vì trí thanh tịnh, nên như hư không không có câu, không có câu nên thanh tịnh. Nên phải rõ không có các câu như vậy.
Đức Phật liền nói Chú rằng:
Tỳ phiệt lê tỳ phiệt ra nỗ ta hê đế bát ra nỗ nễ nễ san nã vĩ phiệt ra ni a tỳ dạ phiệt Ca San nại thiết nễ bát ra bá lê bát ra bá ra nhĩ thâu đạt nễ niết tỳ yết bệ a cá xa tam ma phiệt bà ra ni nễ tỉnh nghê tỉnh giả ba yết để tỉnh giá tỳ mâu chiết nễ a nã đà nễ a đá nẵng tỳ yết đế cương khất sa xiết na bát rị Yết Ma át chế nê a nỗ bát xiết nê a tam minh a ta ma ta mê địa tỳ da nhã nẵng a ha la ninh bát ra nhương chước sô tỳ thâu đà nễ thiết lê da bá na da nễ địa dựng kỳ ô đát ra ni a dụ kê a tỳ dụ kê a tam bát ra dụ kê a tỳ bát ra dụ kê a hột ra bát đà niết hạ lê niết đề xa bát đà tỳ thâu đạt nễ a để đa na yết đa bát ra để du bát na tỳ thâu đạt nễ ngật rị đa bát rị Yết Ma tỳ nễ đế nẵng đa ra tha nỗ yết đế a tăng yết ra ninh a ngật ra bát đà tỳ thâu đạt nễ bát đà bát ra bệ đà nhương na tỳ thâu đạt nễ niết bá tư á bá ta tỳ thâu đạt nễ tam mạn đa nại xa địa xa tỳ da phiệt lư yết ninh nhĩ ra ngược bát đà niết ha lê bát ra nhã nhĩ thâu địa ô bá ta a bát ra minh ca ra ni a cự la ba đạt ma nại rị thiết na nhĩ thâu đạt nễ bộ đá át ra tha san nại rị thiết nễ a nộ mạo đà át tha nhĩ thâu đản nễ ta kiệt ra chất đa nỗ bát ra phệ thế mế rô bát rị tăng tát tha ninh ra thấp nhĩ bát ra đa bát nễ tát bà lộ ca địa bát đế da nhương nang vĩ thâu đản nễ a bát ra để cát đa a tăng già nhương na nại rị thiết ninh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là ấn Đà La Ni, những câu hay thanh tịnh diễn thuyết hư không. Những câu phần đoạn đều không có phần đoạn.
Vì không phần đoạn, nên trong đó không có câu, không có câu thanh tịnh, vì tất cả pháp vẫn là thanh tịnh. Vì người phát tâm Đại Thừa mong cầu pháp thanh tịnh thậm thâm, do vì thần lực Như Lai gia trì, nên những câu Chú này được lưu bố.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Một - Phẩm Vô Thường - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Một - Phẩm Thưa Hỏi
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Một - Phẩm Mười Con đường Thiện Nghiệp - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tam Muội Niệm Phật - Phẩm Ba - Thần Thông - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Ba - Thiên Uẩn - Chương Năm - Tương ưng Sanh - Phần Bốn - Xúc
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tự Tại Vương - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Mười Hai - Phẩm đề Bà đạt đa