Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai - Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm - Phẩm Thứ Nhất - Vô Thượng đà La Ni - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ HAI
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM
PHẨM THỨ NHẤT
VÔ THƯỢNG ĐÀ LA NI
PHẦN BA
Như Lai đã được viên mãn phương tiện diễn thuyết Ba la mật. Như Lai cũng không có chút pháp gì là được. Như Lai chẳng vì được pháp cùng không được mà thuyết pháp.
Như Lai chẳng hành động cũng chẳng phải hành động, chỗ hành động của Như Lai là vô sở đắc. Chẳng nên cho rằng Chư Phật làm công hạnh như thật, vì không có chút pháp nào gọi là Như Lai.
Chính đây là Như Lai an trụ chỗ trụ như vậy, thật hành chỗ làm như vậy. Nếu dùng danh tự để gọi hiệu Như Lai, thì Như Lai cùng danh tự chẳng phải khác chẳng phải không khác.
Vì chẳng khác chẳng phải không khác nên chẳng được cho Như Lai là có lai có khứ. Như Lai chẳng phải hí luận, đã siêu quá hí luận, cũng không có siêu quá.
Như Lai cùng Như Lai tánh chẳng phải tức chẳng phải ly, là tánh chẳng hư vọng, là tánh chẳng biến dị, không có chút pháp gì để khai thị diễn thuyết, cũng không có thị hiện.
Như Lai chứng được bổn tánh như thật của tất cả pháp. Nhưng bổn tánh của tất cả pháp chẳng thể tuyên thuyết, vì tất cả pháp là vô sở hữu.
Do đây Như Lai nói tất cả pháp là vô sở tác, cũng không biến dị, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng xuất chẳng ly, vì tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh.
Với tất cả pháp không có chỗ được, vì không chỗ được nên không có chỗ chứng, như vậy là không có chút pháp gì có thể được. Nếu pháp là có thể được thời trong các pháp lẽ ra có thọ giả. Đã không thọ giả nên biết rằng tất cả pháp do chẳng sanh khởi mà không có chỗ được.
Danh Hiệu của Như Lai cũng do Thánh Giáo dùng giả danh đặt ra, ngôn thuyết như vậy, bổn tánh vốn thanh tịnh. Bậc Thánh ở trong đó không có chút pháp gì là được, cũng không có pháp và phi pháp. Cũng không có pháp gì gọi là Thánh và chẳng phải Thánh, không có pháp gì tương ưng với Thánh hay chẳng tương ưng. Với chỗ diễn thuyết của Như Lai đây, đều phải rõ biết như vậy, lại cũng chẳng nên phân biệt theo thế tục.
Như Lai có thể diễn nói các pháp và phi pháp, cũng chẳng kiến lập có pháp và phi pháp.
Như Lai có thể diễn thuyết pháp lành và pháp chẳng lành, cũng chẳng kiến lập có pháp lành và pháp chẳng lành.
Như Lai có thể diễn thuyết pháp tất cả pháp, nhưng cũng chẳng kiến lập có tất cả pháp.
Như Lai có thể diễn thuyết không biểu thị, nhưng cũng chẳng kiến lập không biểu thị.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp thậm thâm của Như Lai nói đây, người không có nghiệp thanh tịnh thì không thể rõ biết. Nếu người nào mong cầu Vô Thượng bồ đề, cầu giải thoát sanh tử, cần phải hiểu rõ những pháp của Như Lai diễn thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát hiểu rõ được pháp này, cần phải không dụ dự, chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng thấy có chút pháp sanh diệt, không có hí luận chẳng phải không hí luận. Được vậy thời Chư Bồ Tát có thể diễn thuyết pháp chân thật này, cũng chẳng chấp trước pháp chân thật này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như núi Tu Di là chỗ y chỉ cho những cung điện của các chúng sanh có thiện căn phước đức, nơi đó chúng sanh hưởng thọ sự vui sướng.
Cũng vậy, Chư Bồ Tát vun trồng căn lành thời được nghe và thọ trì pháp bảo thậm thâm này, do đây Bồ Tát được nhất thiết chủng trí.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Kinh pháp này có thể tùy thuận chứng nhập pháp trí vô thượng, vì muốn khai thị pháp tạng Đà La Ni của Như Lai, nên lưu bố như vậy.
Đà La Ni này có thể nhiếp tất cả pháp chân thật rộng lớn, như pháp của Chư Phật Như Lai diễn thuyết đều từ môn vô biên Đà La Ni này. Vì muốn thanh tịnh tất cả pháp môn nên Như Lai khai thị diễn thuyết môn Đà La Ni này.
Môn này có thể nhiếp tất cả pháp trong Khế Kinh làm cho không thành không hoại, không trước sau chặng giữa. Như Lai hộ niệm môn Đà La Ni này, có thể làm vô lượng vô biên Phật Sự khắp mười phương Thế Giới.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Bồ Tát nếu muốn hiểu rõ giáo pháp này, muốn lưu bố chánh pháp, muốn nhập pháp ấn vô trụ, muốn hiểu rõ môn bí mật vô ngại, muốn phát khởi gia hạnh đại tinh tấn, muốn hiểu rõ tánh tướng của các pháp để diễn thuyết, thời phải thọ trì giáo pháp của Như Lai diễn thuyết.
Đã thọ trì rồi sẽ rõ biết tất cả ngôn từ bí mật, được trí diễn thuyết văn tự và hiểu rõ lý nghĩa sai khác của các pháp. Vì muốn lợi ích an vui tất cả chúng sanh nên Chư Bồ Tát này lập ra thắng nghĩa khéo tùy theo căn cơ mà truyền dạy cho chúng sanh được lợi ích.
Hoặc tán dương giáo pháp, hoặc lưu truyền giáp pháp, hoặc diễn thuyết giáo pháp, vì thương xót muốn làm lợi ích chúng sanh mà cầu Phật trí, chẳng chấp trước, vì không chấp trước nên không chỗ lấy, cũng chẳng thị hiện nội trí ngoại trí.
Chẳng sanh lòng nhàm đủ nơi chút ít pháp, chẳng dùng sức tinh tấn hạ liệt mà mong cầu trí vô thượng, phải siêng tu tất cả pháp thậm thâm.
Có ai gạn hỏi thời tùy nghĩa mà giải thuyết. Trụ nơi hạnh tự lợi và lợi tha, khéo quan sát tự tha tất cả pháp đều vô ngã. Ngã đã thanh tịnh, liền chứng nhập tất cả pháp thanh tịnh, thích diễn thuyết giáo pháp để khai thị, chẳng bỏn sẻn nơi chánh pháp.
Chư Bồ Tát nên thật hành bốn tâm vô lượng như vậy: Tôi vì lợi ích tất cả chúng sanh, ban cho họ pháp bảo vô thượng thù thắng. Nay tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh tương ưng với pháp bảo vô thượng. Dầu chúng sanh tạo nghiệp ác nặng, tôi cũng chẳng có quan niệm bỏn sẻn chánh pháp đối với họ.
Nay tôi sẽ làm pháp sự của Như Lai, làm pháp sự nhất thiết trí, làm cho chúng sanh thoát khỏi sự khổ, tôi sẽ dùng pháp thuyền đưa chúng sanh qua khỏi dòng sanh tử, cho chúng sanh được tất cả sự an vui.
Chư Bồ Tát phải phát tâm đại bi như vậy. Do đây mau chứng được pháp thù thắng, sẽ được thành tựu môn Đà La Ni thuyết pháp vô ngại của Kinh này, thoát hẳn sanh tử, không bị ngoại luận chiết phục, mà có thể chiết phục tất cả luận điệu của ngoại đạo và hàng phục quân ma. Chư Bồ Tát vì muốn trừ diệt pháp tránh luận mà phải an trụ như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả Như Lai đều nhiếp thọ và khéo ghi nhớ môn Đà La Ni này. Như hậu thân Bồ Tát trụ Cung Trời Đâu Suất, Chư Thiên đều cúng dường, chúng sanh đều mến kính. Thiện căn và phước đức của Bồ Tát này đã thành thục thù thắng.
Chỉ còn một đời thời tất cả công đức bố thí, trì giới, trí huệ đều viên mãn đầy đủ. Là bậc chí tôn trong Cõi Đại Thiên. Là bậc phước đức thiện căn vô thượng, được tất cả loài hữu tình cung kính ca ngợi.
Khi Bồ Tát này rời Cung Trời Đâu Suất xuống Diêm Phù Đề, thời sanh trong cung điện của dòng tôn quý nhất ở đô thành của đại quốc, được mọi người, mọi loài mến kính cúng dường.
Cũng vậy, môn Đà La Ni này an trụ trong tất cả pháp. Chính từ nơi môn này mà các pháp sanh và diệt. Chư Bồ Tát đã an trụ nơi môn này thời thành thục tăng trưởng tất cả pháp, tự tại đối với tất cả pháp, làm chủ tất cả pháp.
Hậu thân Bồ Tát giáng sanh trong loài người dùng sức chánh định vô quán thị mà quan sát tất cả chúng sanh và quan sát toàn Cõi Đại Thiên.
Vì đã được môn Đà La Ni vô thượng, dùng tâm rộng lớn trụ cảnh trí quảng đại, nên trọn chẳng tham luyến tất cả cảnh dục, cũng chẳng mong cầu những pháp xinh đẹp nhiễm ái.
Vì trụ nơi trí không Tam Ma địa, khéo quan sát được phương tiện vô tướng của tất cả pháp, nên đối với tất cả đều không chấp trước, rõ biết các pháp hữu vi trong ba cõi đều là lỗi là họa, đâu nên tham, đâu nên lấy, phải mau xuất ly cầu cảnh giới tịch tịnh giải thoát thù thắng.
Dầu Bồ Tát quan sát như vậy, nhưng không trụ trước nơi quan niệm ấy. Phát sanh lòng đại bi đại từ đối với loài hữu tình, vì thành thục họ mà muốn xuất ly dùng phương tiện thuận nhập trí huệ thù thắng, được tự tại đối với các hữu tình, được môn phương tiện Đà La Ni vô ngại đối với các pháp.
Dùng trí phương tiện khéo quan sát tất cả hữu tình và khéo quan sát nghĩa lý quyết định bất tư nghì. Dầu đương tuổi thanh xuân tươi đẹp mà trọn không ưa thích các cảnh dục lạc, chỉ mong cầu tịch tịnh. Rồi xa lìa quyến thuộc thân thích mà xuất gia, trọn nên phương tiện thậm thâm bất tư nghì.
Đem tất cả phước huệ đã từng chứa nhóm mà thẳng đến Đạo Tràng Vô Thượng bồ đề, chứng được môn Đà La Ni vô thượng thậm thâm, thành tựu tự nhiên trí, vô ngại trí, an trụ nhất thiết chủng trí, chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng, phạm âm thâm diệu khai thị tri kiến cho tất cả Trời, người, tất cả chúng sanh. Như mặt trời giữa trưa tỏa ánh sáng khắp nơi.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bồ Tát trụ nơi Đà La Ni nhất thiết chủng trí chứng Vô Thượng bồ đề. Cú nghĩa sai biệt của môn Đà La Ni đó, Chư Bồ Tát khác không thể biết được.
Nếu là bậc Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ ngồi nơi Đạo Tràng, do trí thanh tịnh, không thầy mà tự được giác ngộ, thời chứng được môn Đà La Ni trên đây.
Cũng như bậc Bồ Tát vì đạo bồ đề, nên trong vô lượng kiếp vun trồng căn lành, tu tập phạm hạnh được pháp nhẫn thậm thâm, vì thương xót tất cả chúng sanh nên do tâm đại từ bi mà được chứng môn Đà La Ni này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bồ Tát do môn Đà La Ni này ngồi nơi Đạo Tràng sẽ chứng Vô Thượng bồ đề. Nay Phật không thể thị thuyết cho ông được. Tự ông sẽ chứng được pháp môn đó khi mà ông đã đủ trí huệ phải có của bậc Bồ Tát. pháp môn đó không thể chỉ bày, cũng không thể tuyên thuyết. Đây là pháp môn mà Bồ Tát tự mình phải hiểu rõ, là pháp môn vô biên, vô lượng, vô thí dụ.
Pháp Môn này siêu quá tất cả thế gian, không cùng chung với Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn v.v... thẳng đến pháp thanh tịnh vô thượng nhất thiết chủng trí và tự nhiên trí.
Do trí thanh tịnh tự nhiên vô thượng này mà Bồ Tát có thể chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng, lần lượt nhiếp thủ chúng sanh đến trí vô thượng nhất thiết chủng.
Vì nơi các pháp môn và Niết Bàn đều được thanh tịnh, nên Bồ Tát khai thị diễn thuyết vô lượng pháp nghĩa: Những uẩn, xứ, giới, duyên khởi v. v... đồng thời cũng thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo đối với uẩn, xứ v.v...
Bồ Tát lại làm cho chúng sanh phát khởi tâm hướng vào môn Thánh đế, đồng thời cũng thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo nơi Thánh đế. Phát sanh ba mươi bảy phẩm bồ đề phần và thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo bồ đề phần.
Phát khởi chỉ quán thiền thanh tịnh thiện xảo và thị hiện trí nhiếp trì chỉ quán thiền thanh tịnh thiện xảo. Phát khởi và thị hiện trí vô sanh thanh tịnh, trí minh giải thoát thiện xảo, mà có thể diễn thuyết đại Niết Bàn.
Nơi các pháp hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, dùng vô lượng danh nghĩa để khai thị tuyên thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai nói phương tiện nhiếp trì khắp tất cả pháp của môn Đà La Ni này. Đây là chỗ an trụ của tất cả công lực thiện xảo của nhất thiết trí Đà La Ni.
Tùy theo bổn nguyện của tất cả chúng sanh mà rưới pháp vũ, cho tất cả hữu tình khô khan đều được thấm nhuần đầy đủ diệu pháp.
Các ông, hàng Bồ Tát, phải theo Như Lai học pháp môn thậm thâm này, không được trái nghịch. Nơi Đà La Ni nhất thiết chủng trí này, không bao lâu các ông sẽ được nhiếp trì tự tại, làm cho chúng sanh được vô lượng lợi ích như Phật hôm nay.
Các ông nên dùng vô lượng danh từ sai khác để khai thị tuyên thuyết môn Đà La Ni trí huệ thậm thâm này. Các ông phải mong cầu thắng giải nơi pháp này, chẳng được xa lìa tư lương bồ đề.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thế nào là mong cầu thắng giải?
Chư Bồ Tát phải hiểu rõ tất cả các pháp vốn chẳng sanh chẳng diệt, không động không dừng, chẳng đến chẳng đi, tự tánh rỗng rang vắng lặng.
Nơi tánh không đây cũng không chấp trước, huống là nơi tướng mà lại chấp trước! Trong tánh không đó, không có tướng tưởng. Nếu ở nơi tánh không đó mà được không có tướng tưởng, thời có thể vào được pháp hữu vi không, chẳng có ngã, ngã sở, chẳng có tất cả ngã, chân, chúng sanh, thọ giả.
Không tánh như vậy: Chẳng phải nhiễm trước, chẳng phải không nhiễm trước, chẳng phải ô cấu, chẳng phải không ô cấu, chẳng phải mê hoặc, chẳng phải không mê hoặc, chẳng phải tham ái, chẳng phải không tham ái, chẳng trụ nơi không cũng chẳnh trụ chỗ nào, cũng chẳng kiến lập.
Với không nếu yểm ly thời không liền tịch diệt, không có phân biệt, không khắp phân biệt, không thắng phân biệt, không có công dụng.
Nhẫn đến không có chút pháp gì có thể lấy. Tự tánh vốn thanh tịnh. Không tánh đó chính là bổn tánh tự tánh của các pháp. Tất cả pháp hữu vi bổn tánh đều không, cho đến pháp lành, pháp ác, hữu vi, vô vi, pháp thế gian, xuất thế gian, bổn tánh cũng đều không như vậy cả.
Chư Bồ Tát nhiếp thọ được thắng giải như vậy, thời được vào nơi giải thoát và tri kiến giải thoát, cũng có thể nhiếp thọ vô cấu giải thoát và tư lương bồ đề.
Thế nào là tư lương bồ đề?
Chính là giới thanh tịnh, định thanh tịnh, huệ thanh tịnh, giải thoát thanh tịnh, giải thoát tri kiến thanh tịnh, sáu môn Ba la mật thanh tịnh. Nếu các pháp trên đều thanh tịnh thời là khắp thanh tịnh.
Nếu khắp thanh tịnh thời là vô cấu pháp môn: Tâm tánh thanh tịnh chiếu sáng không có phiền não. Tâm đó thường trụ, bổn tánh không tịch. Cũng không bị tri kiến, khách trần, phiền não ba thứ này làm nhiễm ô.
Ba thứ đều chẳng thật, rỗng không vô sở hữu. Tâm tánh đây chẳng tương ưng với phiền não thanh tịnh. Vì tâm này bổn tánh tự thanh tịnh không hai, cũng không hai phần.
Nếu có thể rõ biết tâm tánh như vậy, chẳng phải phiền não nhiễm ô mà làm ô nhiễm được, chẳng phải trong ngoài chặng giữa, tất cả đều bất khả đắc.
Chỉ trừ ra vọng tưởng nhân duyên hòa hiệp thời có tâm niệm sanh khởi, dầu có tâm sanh nhưng cũng chẳng thể thấy, tìm cầu khắp mười phương cũng trọn bất khả đắc.
Cũng không có tâm thấy được nơi tâm, phan duyên như vậy chẳng phải hòa hiệp với tâm, tâm cũng chẳng hòa hiệp với phan duyên, chân duyên cũng chẳng phải tương ưng với tâm, tâm cũng chẳng tương ưng với chân duyên, chỉ do nơi tâm mà tất cả pháp kia tương ưng với tâm.
Bao nhiêu pháp tương ưng với tâm, chẳng biết lẫn nhau cũng chẳng thấy được, huống là những pháp chẳng tương ưng với tâm.
Dùng đệ nhất nghĩa tư duy quan sát không có vật gì có thể tương ưng và chẳng tương ưng. Vì không có chút pháp nào tương ưng và chẳng tương ưng với chút pháp nào.
Tất cả pháp tự tánh tịch tịnh. Tự tánh này cũng chẳng tương ưng với chút vật nào. Tự tánh của tất cả pháp tức là bổn tánh. Nếu là bổn tánh thời tất cả pháp kia đều không có tự tánh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên biết rằng nếu dùng ngôn thuyết mà nói lên được bổn tánh tự tánh của tất cả pháp, thời quyết không đúng lý. Trong các pháp không có chút pháp nào gọi là bổn tánh tự tánh. Tất cả pháp bổn tánh đều không.
Tất cả pháp tự tánh vốn vô tánh. Nếu đã là không, là vô tánh thời kia là một tướng. Một tướng đây chính là không có tướng. Vì không có tướng nên bổn tánh tự tánh được thanh tịnh.
Nếu đã là không, là vô tánh, thời bổn tánh tự tánh kia chẳng thể dùng tướng để biểu thị, nhẫn đến tất cả pháp cũng như vậy. Không vô tánh đây chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, nhưng là bổn tánh của tất cả pháp. Nếu là bổn tánh của tất cả pháp, thời chẳng phải do nhiễm tịnh kiến lập lên, mà là không trụ không khởi.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông nên quan sát tất cả pháp không trụ không khởi, không bị kiến lập, đã là bổn tánh thanh tịnh, tại sao chúng sanh lại ở trong đó mà mê lầm?
Đây là do chúng sanh trong thế gian ngồi trên xe hư vọng nên bị xe hư vọng làm mê lầm. Nói là ngồi xe, thật ra không có ngồi cũng chẳng phải không ngồi.
Mà thế gian ngồi trên xe hư không rồi bị xe hư không ràng buộc. Nhưng thật ra xe hư không cũng là vô sở hữu. Những chúng sanh đây vì quá ngu si mà mê lầm. Nhưng thật ra không có ngu si cũng không có mê lầm.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông quan sát chúng sanh vì do ngu si nên ở trong pháp này chẳng rõ biết được mà ở mãi nơi tránh luận. Ở nơi tránh luận chính là chẳng phải ở.
Nhưng thế gian vì mê lầm chẳng rõ biết được kia chính là thanh tịnh. Nếu chẳng ở thời đó gọi là ở, chính đây là căn lành thanh tịnh chẳng ở.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn bí mật của Như Lai đây khó hiểu khó vào. Chỉ trừ các ông từ lâu đã tu hành pháp lành nên được rõ biết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai từng nói ở nơi tránh luận thời chẳng phải là ở, vì là bất thiện. Nhưng bất thiện vẫn là vô sở hữu. Nếu ở trong vô sở hữu này chẳng rõ biết được ở cùng chẳng ở không sai khác, đây thời gọi là ở nơi tránh luận.
Nếu được ở nơi căn lành thanh tịnh thời chẳng gọi là ở. Nếu ở thời không lỗi lầm. Vì không lỗi lầm có thể rõ biết pháp môn như vậy. Đã rõ biết, nếu chẳng thanh tịnh, thời không đúng lý. Những chúng sanh không có trí huệ bị nhiều phiền não che đậy, giả sử nói chút ít pháp thuận rõ ràng, họ còn chẳng hiểu được, huống là pháp bí mật chẳng phải tùy thuận.
Nếu không ở, thời là thanh tịnh nghĩa là chẳng ở nơi pháp lành và cảnh giới xuất ly. Vì không có cảnh giới xuất ly và cảnh giới thi thiết. Nơi cảnh giới Niết Bàn, nếu chẳng trụ thời gọi là được Niết Bàn. Danh từ Niết Bàn đây cũng chỉ là giả thiết. Niết Bàn đây, không chỗ chứng được, cũng không có người chứng được.
Nếu có chứng được, thời lẽ ra sau khi diệt độ lại có Như Lai. Nếu không được, lẽ ra sau khi diệt độ có Như Lai. Sau khi diệt độ, đều không thể nói rằng có Như Lai hay không Như Lai. Câu không thể nói đây cũng là câu giả thiết của Như Lai thôi.
Có những chúng sanh đối với pháp thậm thâm, chẳng chuyên cần tu hành mà lại sanh nghi lầm, hoặc cho rằng Như Lai có sắc, sau khi diệt độ có Như Lai. Hoặc cho rằng Như Lai không sắc, sau khi diệt độ không Như Lai. Nhẫn đến hoặc cho rằng sau khi diệt độ chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai.
Nếu pháp đã là chẳng sanh chẳng diệt, sau khi pháp đó diệt, chẳng nên nói có nói không. Như Lai đây chẳng sanh chẳng diệt, sau khi diệt độ cũng chẳng nên nói có nói không nhẫn đến cũng chẳng nên nói hữu biên vô biên v.v... tất cả đều chẳng thể nói.
Nếu nói hữu biên thời không có chính giữa, nếu nói có chính giữa, thời không hữu biên. Chính giữa trên đây là phi hữu, phi vô.
Nếu ở trong đây cho rằng thiệt có thiệt không, thời trái với duyên khởi. Nếu có pháp nào chẳng phải từ nơi duyên khởi và chẳng phải duyên khởi, thời pháp đó chẳng diệt, chẳng trái với hữu với vô. Tất cả pháp từ nơi duyên khởi và pháp Duyên khởi đều không có biên, không có chặng giữa, chẳng phải có chẳng phải không.
Nếu đã chẳng phải có chẳng phải không, thời đâu có thể nói được.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai dùng đại phương tiện an trụ trong đó, vì phá vỏ vô minh cho chúng sanh mà khai thị diễn thuyết chẳng trái với duyên khởi. Tất cả các pháp đều vào duyên khởi.
Nếu đã vào duyên khởi thời không có thuyết trung hay biên. Nếu lìa ngôn thuyết thời không có chút pháp gì có thể được.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát pháp vô sở hữu, pháp không hữu biên gọi đó là trung đạo. Do nơi phương tiện mà nói có giác huệ có thể nhiếp trì các pháp. Nhưng pháp nhiếp trì cũng bất khả đắc, vì bất khả đắc nên không có ngôn thuyết.
Các ông là Bậc trí giả nên biết tướng chân thật của tất cả pháp như vậy: Chẳng đến chẳng đi, không có phần không có đoạn, chẳng một tánh chẳng khác tánh, đến bờ rốt ráo kia, không có chút pháp nào chẳng đến bờ kia. Đến bờ kia chính là Niết Bàn. Tất cả pháp đều là tướng Niết Bàn.
Do đây nên biết rằng chẳng thể tuyên thuyết được, chỉ tùy theo thế tục nói là trung đạo. Trung đạo đây chính là thẳng đến đường đại Niết Bàn, nhưng cũng có Niết Bàn là chỗ để đến.
Nếu có Niết Bàn là chỗ để đến thời nơi các pháp lẽ ra có đi có đến. Nhưng tất cả pháp bổn tánh đều bình đẳng, nên Niết Bàn gọi là không chỗ đến.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây gọi là trung đạo, nhưng trung đạo đây bèn chẳng phải là trung đạo, vì không tăng không giảm, vì không có biên không có lấy.
Nếu pháp đã vô biên thời đâu phải là hữu biên. Chính không có chỗ nơi là pháp vô biên. Hàng phàm phu đối với không chỗ nơi chấp là có biên có chỗ. Vì chấp có biên có chỗ nên chẳng được giải thoát.
Tại sao không được giải thoát?
Vì nơi chân thật vốn là không chỗ nơi. Ông xem Như Lai dùng giác huệ quyết định thiện xảo mới có thể diễn thuyết trung đạo như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đối với tất cả pháp, Chư Phật Như Lai không có nghi lầm, cũng không quên sót. Chư Phật Thế Tôn thường ở trong chánh định vô ngại tự tại, thường khéo quan sát trụ nơi chánh định tối thắng, dùng vô lượng tri kiến mà diễn thuyết, chẳng ở nơi Phi Xứ để nói pháp thanh tịnh, nói pháp rốt ráo, nói pháp tịch tịnh. Chỗ nói của Như Lai không dư không sót.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như có bảo châu tên là chủng chủng sắc ở trong đại hải, dầu có vô lượng dòng nước chảy vào đại hải, do hỏa lực của bảo châu làm cho nước biển chẳng đầy tràn.
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng hỏa lực trí huệ có thể làm tiêu diệt phiền não của chúng sanh cũng như vậy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu có người trong mỗi ngày xưng niệm danh hiệu công đức của Như Lai, người này có thể lìa khỏi sự tối tăm, lần lần sẽ đốt tiêu những phiền não.
Người xưng hiệu Nam Mô Phật thời ngữ nghiệp chẳng luống không. ngữ nghiệp này gọi là cầm đuốc lửa có thể đốt tiêu phiền não.
Nếu có người nào được nghe Danh Hiệu của Chư Phật Như Lai, thời lìa khỏi các sự tối tăm, cùng với người xưng niệm kia đồng là chân của Niết Bàn.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật vì những chúng sanh kính tin nơi Như Lai mà diệt trừ phiền não cho họ, nên rưới pháp vũ.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp chân thật của Như Lai nói. Vì chân thật nên không có chút pháp gì để khai thị diễn thuyết, mà nơi pháp này không thật không hư. Như Lai là đấng chân thật ngữ trụ nơi pháp chân thật, có thể diễn thuyết môn Đà La Ni này.
Pháp chân thật đây, ai sẽ có thể hiểu rõ được?
Chính là Chư Bồ Tát, những bậc đã thấy biết như thật, thấy biết đầy đủ, thật hành những điều lành. Ngoài những bậc này, người khác không hiểu rõ được.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phải nên tùy thuận nơi nghĩa này, tự phải chuyên niệm nơi pháp này, chẳng tin ưa nơi trí huệ phát sanh do người khác. Vì muốn đem sự lợi ích an vui cho chúng sanh, nên cần tùy thuận nơi pháp này. Nếu có trí nhẫn tùy thuận pháp này, thời là an trụ trong chẳng tùy thuận.
Những chúng sanh không học rộng, không có trí nhẫn tùy thuận thời chẳng rõ biết được giáo pháp này. Những người thật hành theo kiến chấp của ngoại đạo, đi trên con đường khác thẳng đến ác đạo, chẳng làm điều lành, gần gũi với những người thật hành hạnh nghiệp tà ngoại, thời không thể vào được pháp môn này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát: Nếu lúc có người diễn thuyết pháp tạng quang minh vô ngại này, tất cả chúng sanh không học rộng chưa điều phục tâm phàm phu, thời cách xa giáo pháp này.
Còn những chúng sanh có thể tu tập lấy tự thân dầu chưa có chí nhẫn tùy thuận, nhưng chẳng cách xa giáo pháp này. Huống là những người có chí nhẫn vô lậu, không chấp trước, có thể chuyển pháp luân vô ngại. Vì những người này đều trụ bậc vô ngại.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phật vì thành tựu những chúng sanh có thiện căn, vì gia trì cho chúng sanh được tri kiến thanh tịnh đối với pháp vô ngại, cũng vì muốn đem sự lợi ích an vui cho tất cả, nên Phật diễn nói môn Đà La Ni này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu người nào ngộ nhập được pháp môn này, nên biết người đó đã trụ bậc Bồ Tát, có thể mau chứng được vô sanh pháp nhẫn, sẽ được thọ ký Vô Thượng bồ đề. Các ông phải có thắng giải đối với pháp môn thậm thâm này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên biết pháp môn này là chỗ ở của người không chấp trước, của trí vô sở đắc. Những người này trước đã từng cúng dường Chư Phật, chuyên cần tu tập thân, khẩu, ý, có trí huệ bình đẳng không trụ trước, khéo thọ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, thời có thể lưu truyền Kinh Điển này.
Đời sau, nếu có chúng sanh vì muốn được nghe pháp này nên chuyên cần tu tập, những người đây còn là khó có được, huống là những người có thể biên chép thọ trì, đọc tụng thông thuộc, khai thị tuyên thuyết.
Những người đây chẳng bao lâu sẽ được môn thanh tịnh Đà La Ni, sớm được trí huệ thanh tịnh, sẽ được chứng nhập nhất thiết chủng trí.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem Đức Như Lai vì Chư Bồ Tát cầu được nhất thiết chủng trí mà khai thị diễn thuyết pháp tạng này, nhưng trong đó không có chút pháp gì là chẳng diễn thuyết.
thuyết pháp như vậy là không thuyết mà thuyết, có thể sanh và có thể khai thị pháp môn thanh tịnh. Tất cả pháp đồng như tướng hư không.
Thế nào là đồng?
Bởi tất cả pháp đồng với hư không, nhưng hư không này chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Tất cả pháp cũng chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Như hư không vô biên, các pháp cũng vô biên. Biên bờ của tất cả pháp là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên là vô biên.
Nếu ở trong pháp đây trụ được như vậy thời gọi là trụ. Như Lai pháp. Trụ Như Lai pháp thời là vô sở thuyết.
Nếu đã là vô sở thuyết, thời đối với tất cả pháp dùng danh tướng giả theo đó để rõ biết, chẳng nên sanh lòng chấp trước.
Nếu chẳng chấp trước thời chẳng đọa nơi biên.
Nếu chẳng đọa nơi biên thời chẳng đọa nơi trung.
Nếu đọa nơi biên thời tất đọa nơi trung. Do đây cần phải xa lìa nơi trung và biên.
Nếu đã xa lìa được trung và biên, thời là xa lìa tất cả.
Nếu xa lìa tất cả thời là vô sở thuyết. Do đây được trí huệ thanh tịnh, không thủ trước tất cả pháp, không sở thủ, không năng thủ.
Vì các pháp là vô ngã, vì ngã vốn vô sở đắc, vì ngã tánh vốn không có tự tánh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Phật từng nói các hành pháp vô thường. Diễn thuyết như vậy là nghĩa không biến dị, là nghĩa chẳng tương ưng.
Như Phật đã nói nghĩa khổ của các cõi. Diễn thuyết như vậy là nghĩa yểm ly, là nghĩa Niết Bàn.
Như Phật đã nói Niết Bàn tịch tịnh. Diễn thuyết như vậy là nghĩa bỏ lìa tất cả pháp hữu vi. Hoặc vô thường, hoặc các khổ, hoặc vô ngã, hoặc Niết Bàn, đây là những pháp môn của Như Lai diễn thuyết. Đây cũng là Như Lai khai thị bổn tánh tự tánh của tất cả pháp.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai dùng các thứ danh từ, các thứ ngữ ngôn, các thứ phương tiện mà tuyên thuyết các pháp. Như Lai cũng chẳng lập ra khác với bổn tánh của các pháp. Tánh chẳng phải một, tánh chẳng phải khác, tất cả pháp cũng chẳng phải một chẳng phải khác, vì chẳng thể thấy, nên mau chứng vào tự tánh hư không thẳng đến tất cả pháp vô tướng.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai vì Chư Bồ Tát bổn tánh thanh tịnh, tự tánh điều phục, nên phát khởi môn Đà La Ni này. Trên đây nói điều phục là nói điều phục tham, sân, si, điều phục vô minh, để được vào thẳng pháp tánh bình đẳng. Tham, sân, si cùng người điều phục đều bất khả đắc. Nếu là bất khả đắc chính đó là điều phục.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tham, sân, si đúng như lý tìm cầu cũng là bất khả đắc. Bởi tham, sân, si rỗng không hư vọng chẳng thật, nó phỉnh lầm hàng ngu phu, chính nó không chỗ an trụ, cũng là bất khả đắc, nó từ hư vọng sanh, từ hư vọng diệt, bổn tánh không tịch, cần phải biết như vậy.
Phải biết thế nào?
Như nó chẳng sanh, thời là chẳng thật, cũng chẳng điên đảo. Tham, sân, si đây đều do vô minh hắc ám làm nguyên thủ, theo nơi đó mà sanh.
Do theo nơi đó sanh nên tất cả đều là hư vọng chẳng thật. Tham, sân, si đây bổn tánh thanh tịnh. Người thấy biết như vậy thì có thể được môn thanh tịnh bất tư nghì và được môn Đà La Ni.
Người nào có thể ở trong pháp này khéo tư duy quán sát, thời gọi là được công hạnh Đà La Ni và được công hạnh trí huệ. Đây gọi là trí rõ biết bình đẳng, gọi là tư lương bồ đề thanh tịnh, gọi là bậc tinh tấn chẳng phóng dật, gọi là bậc điều phục kiêu mạn phóng dật, gọi là chẳng hư hoại giới hạnh oai nghi, gọi là thân ngữ ý thanh tịnh, gọi là tùy thuận trí vô ngã, gọi là hay dứt hay lìa tưởng, gọi là xuất sanh vô lượng vô biên phương tiện thiện xảo.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát trong pháp tin hiểu xuất ly này có thể khai thị diễn thuyết bổn tánh tự tướng của tất cả pháp, có thể khai thị các pháp môn đây, có thể diễn thuyết tất cả pháp đồng tánh hư không. Người năng thuyết cũng là bất khả thuyết, người được vì thuyết pháp cũng là bất khả đắc.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật nói pháp môn ngộ nhập của Chư Bồ Tát đây. Nếu Chư Bồ Tát đã học pháp môn này rồi, thì có thể được trí huệ rất sâu như biển, tất cả ngoại luận không đè bẹp được, liền được công hạnh hướng đến nhất thiết chủng trí, khéo diễn thuyết pháp yếu, đặng trí huệ bình đẳng bất tư nghì không do người khác.
Do trí huệ nên không chấp trước, có thể diễn nói tất cả pháp môn không danh không tướng này. Có thể được gần gũi Phật trí và tự nhiên trí. Chỗ có danh hiệu đều được tất cả danh tướng thanh tịnh, mau chứng được âm thinh phổ biến, âm thinh duy y, âm thinh thắng diệu, âm thinh thanh tịnh.
Được các chúng sinh kính tin gần gũi thưa hỏi. Bồ Tát này dùng trí huệ quyết định khéo giải đáp, lời nói phải thời, lời nói đúng lý, lời nói lợi ích, lời nói dịu dàng, lời nói nghĩa quyết định, dùng một nghĩa để diễn thuyết, có thể làm cho chúng sanh rõ biết nhiều nghĩa.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông nay nên quan sát Chư Bồ Tát tu hành pháp này, có thể hiểu rõ Phật trí, được vô lượng công đức như vậy, dứt những tham ái sân não ngu si, có thể được trí sai biệt, làm xong những công hạnh nên làm, với tất cả chỗ đã khéo tu học, được chí nhẫn đầy đủ, chẳng thối thất ý chí thanh tịnh, đứng vững nơi đại nguyện, đối với chúng sanh dùng lời lành thăm hỏi.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát ở trong pháp này đã chẳng siêng tu, nay chẳng siêng tu, ngày mau cũng chẳng siêng tu, thời không dự được phần ít nào nơi công đức thù thắng của Như Lai.
Nếu Chư Bồ Tát ở trong pháp này có thể siêng năng tu tập, có chí cầu tất cả thời đúng như chỗ nguyện cầu, đúng như chỗ thật hành, đúng như chỗ hướng đến, đúng như chỗ ưa thích, sẽ được đầy đủ.
Nếu có Bồ Tát ở trong pháp thậm thâm này có thể an trụ, có thể nhẫn thọ, khéo quan sát giản trạch, thời sẽ chứng được thần thông vô tận và trí đại thần thông, siêu quá tất cả trí thế gian, được tự nhiên trí, vô biên trí, vô lượng trí.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn xuất ly Đà La Ni này, nếu có người nào siêng tu học, thời sẽ được gần Đạo Tràng bồ đề vì tất cả chúng sanh mà phát khởi tâm đại từ đại bi thật hành những Phật Sự.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba