Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Bảy - Phẩm Thi La Ba La Mật - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI

PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG  

PHẨM THỨ BẢY

THI LA BA LA MẬT  

PHẦN NĂM  

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Đấng mắt sáng cứu đời

Bậc tối thượng tất cả

Giỏi hiểu phương chữa trị

Nên chứng quả tịch diệt

Qua lại theo lời thầy

Cảm báo lành như vậy

Chưa từng bị khổ não

Và các nghiệp bất thiện

Mau sanh lên Cõi Trời

Mau trở lại loài người

Mau gặp Phật xuất thế

Mau rời xa các nạn

Giàu to của cải nhiều

Mắt thấy các kho kín

Tay rờ đến chỗ nào

Tự nhiên đầy của báu

Hóa hiện ao hồ đẹp

Thường đầy nuớc tám đức

Là quả lành tự tại

Chưa từng bị ưu não

Tay chân chẳng què vá

Không có tướng xấu xí

Thân thể chẳng khô héo

Cũng chẳng có giảm thiếu

Chẳng gù chẳng thiếu mắt

Ngón tay chẳng thiếu thừa

Đầu khác đỉnh đầu voi

Là quả lành tự tại

Dung mạo đều tròn đầy

Chất nặng như khối vàng

Đoan nghiêm người thích ngắm

Da thứa đều sáng bóng

Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần

Và mọi người trong đời

Cung kính đồng cúng dường

Là diệu đức tự tại

Rời xa các ác đạo

Đến Cõi Trời cõi người

Mau ngộ đại bồ đề

Là quà lành tự tại

So sanh đã biết rõ

Tâm tất cả chúng sanh

Bốn phương đi bảy bước

Tiếng tốt cáo Thế Giới

Người ấy trí tối thượng

Người ấy huệ tối thượng

Giải thoát cũng tối thượng

Tối thượng trong chúng sanh

Huệ khiến huệ thanh tịnh

Huệ nương trí gây dựng

Huệ trí cùng giải thoát

Đều chứng y Chư Phật

Tự tánh sanh do huệ

Thấy biết thì do trí

Nếu có đủ trí huệ

Cầu chi đều toại nguyện

Nghĩa thậm thâm như vậy

Phật vì ông nói lượt

Người thiểu dục vô huệ

Đâu thọ được nghĩa này

Họ bị si làm si

Các ác bức ngặt họ

Phát khởi lòng giận hờn

Chẳng kính trọng chánh pháp

Nếu chúng sanh thiểu dục

Với chánh pháp như vậy

Chẳng có lòng kính trọng

Lại phát khởi việc khác

Chúng sanh chẳng kính pháp

Hờn ghét và mê chấp

Lòng họ thưởng ô nhiễm

Chẳng nên đem dạy họ

Các người đến ngày già

Suy yếu bệnh trầm trọng

Đến giờ họ lâm chung

Luống nói trụ thân sau

Các người đến ngày già

Suy yếu bệnh trầm trọng

Vọng hưởng phần Ứng Cúng

Mau đọa vào địa ngục

Còn khó được đủ giới

Huống quả A La Hán

Người tin xây Miếu Thờ

Do đó lại bị đọa.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát siêng tu hành giới hạnh như vậy. Vì cầu Bồ Tát tạng nên Đại Bồ Tát đem thân thờ các bậc thầy chánh hạnh, do đó được công đức như trên đã nói, lại còn được công đức bội hơn trước vô số lượng vô biên bất khả tư nghị. Phải biết Đại Bồ Tát an trụ tạng Bồ Tát như vậy khéo thật hành tự tại các Bồ Tát hạnh giới thanh tịnh vi diệu.

Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là giới thanh tịnh vi diệu?

Này Xá Lợi Phất! Vì thật hành Thi La Ba la mật nên Đại Bồ Tát được mười thứ Thi La thanh tịnh mà ông nên biết:

Một là đối với chúng sanh không bao giờ làm tổn hại.

Hai là đối với tài vật của kẻ khác chẳng bao giờ cướp trộm.

Ba là đối với thê thiếp của người chẳng bao giờ nhiễm ô.

Bốn là đối với tất cả chúng sanh chẳng bao giờ khi dối.

Năm là với quyến thuộc thì hòa hiệp chẳng bao giờ trái rời.

Sáu là đối với chúng sanh chẳng bao giờ nói thô cộc, vì hay nhịn chịu ác ngôn của họ.

Bảy là xa rời ỷ ngữ, vì lời nói ra đều đã suy gẫm kỹ.

Tám là xa rời tham lam, vì đối với sự thọ dụng của người không có ngã sở.

Chín là xa rời giận hờn, vì hay nhịn chịu lời thô việc nhục.

Mười là xa rời tà kiến, vì chẳng tôn thờ Chư Thiên Tiên thần quỷ khác.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi La thanh tịnh mà ông nên biết:

Một là Thi La chẳng khuyết, vì chỗ chứng được chẳng do vô trí.

Hai là Thi La chẳng thủng vì sự bất bình đẳng đã xa rời.

Ba là Thi La chẳng lem, vì tất cả phiền não chẳng xen tạp.

Bốn là Thi La chẳng nhiễm ô, vì được pháp lành làm tăng trưởng.

Năm là Thi La đáng dâng cúng, vì tùy ý muốn đều tự tại hành động.

Sáu là Thi La đáng ngợi khen, vì các bậc trí chẳng quở rầy.

Bảy là Thi La chẳng thể chê, vì tất cả lỗi xấu đều chẳng dung chứa.

Tám là Thi La khéo bảo hộ, vì khéo giữ gìn sáu căn.

Chín là Thi La khéo phòng thủ, vì chánh trí tự nhiên luôn hiện tiền.

Mười là Thi La khéo xu hướng, vì Bồ Đề nguyện làm trợ bạn.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi La thanh tịnh mà ông nên biết:

Một là Thi La thiểu dục, vì đúng pháp thanh tịnh khéo biết lượng.

Hai là Thi La tri túc, vì dứt hẳn tất cả sự tham trước.

Ba là Thi La chánh hạnh, vì hay làm cho thân tâm đều xa rời.

Bốn là Thi La tịch tĩnh, vì những ồn náo đều bỏ xa.

Năm là Thi La có nhiều công đức trừ bỏ thị cục, vì do thiện căn tự tại mà thành.

Sáu là Thi La Thánh chủng tri túc, vì với dung nhan người chẳng đoái chẳng hy vọng.

Bảy là Thi La làm đúng như lời, vì trong tối hay sáng đều phụng nhiếp chẳng khi Trời, Người.

Tám là Thi La tự xét lỗi mình, vì thường dùng gương pháp soi rõ tâm mình.

Chín là Thi La chẳng chê người kém, vì giữ ý cho người.

Mười là Thi La thành thục chúng sanh, vì chẳng bỏ rời các nhiếp pháp.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi La thanh tịnh mà ông nên biết:

Một là Thi La lòng tin thanh tịnh đối với pháp, vì thủ hộ chánh pháp.

Ba là Thi La lòng tin thanh tịnh đối Tăng, vì tôn kính Thánh Chúng.

Bốn là Thi La cúi xuống làm việc, vì chẳng rời suy tư Phật bồ đề.

Năm là Thi La gần thiện hữu, vì khéo chứa nhóm giác phần tư lương.

Sáu là Thi La rời xa ác hữu, vì vứt bỏ tất cả ác pháp.

Bảy là Thi La Đại Từ Ba la mật, vì thành thục các chúng sanh.

Tám là Thi La Đại Bi Ba la mật, vì làm cho chúng sanh khốn ách được giải thoát.

Chín là Thi La Đại Hỉ Ba la mật, vì với chánh pháp sanh lòng hỉ lạc.

Mười là Thi La Đại Xả Ba la mật, vì với các tham sân đều xả bỏ cả.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi La thanh tịnh mà ông nên biết:

Một là Thi La Đàn Na Ba la mật, vì khéo thành thục các chúng sanh.

Hai là Thi La Sằn Đề Ba la mật, vì khéo hộ trì tâm chúng sanh.

Ba là Thi La Tỳ Lê Gia Ba la mật, vì với các chúng hạnh chẳng thối chuyển.

Bốn là Thi La Tĩnh Lự Ba la mật, vì khéo đầy đủ tịnh lự tư lương.

Năm là Thi La Bát Nhã Ba la mật, vì lắng nghe căn bổn không nhàm không đủ.

Sáu là Thi La vui cầu nghe pháp, vì thường tra thỉnh cầu Bồ Tát tạng.

Tám là Thi La chẳng bảo trọng mạng sống, vì dùng tâm như ảo thường quán sát.

Chín là Thi La các ý nguyện đầy đủ, vì khéo thanh tịnh từ lúc phát tâm.

Mười là Thi La hòa hiệp Phật Giới luật, vì hồi hướng tất cả giới của Như Lai.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, vì Đại Bồ Tát đầy đủ giới thanh tịnh như vậy nên chẳng có sự khoái lạc vi diệu nào của Trời của người mà Đại Bồ Tát chẳng hưởng thọ, chẳng có nghề nghiệp khéo giỏi nào của thế gian mà Đại Bồ Tát chẳng biết.

Chẳng có đồ cần dùng náo của chúng sanh thế gian mà Đại Bồ Tát chẳng đủ, chẳng có phàm phu nào chẳng gây oán hại mà Đại Bồ Tát chẳng hề giận họ.

Chẳng có thế gian nào chẳng hư dối gạt gẫm mà Đại Bồ Tát đều chẳng tin nhận, không có chúng sanh thế gian nào mà Đại Bồ Tát chẳng tưởng là cha ruột đối với họ, không có chúng sanh thế gian nào mà Đại Bồ Tát chẳng tưởng là mẹ ruột đối với họ.

Không có chúng sanh thế gian nào mà Đại Bồ Tát chẳng có ý tưởng bảo nhiệm gần gũi họ, không có một pháp hữu vi nào mà Đại Bồ Tát chẳng tưởng là vô thường sanh diệt.

Này Xá Lợi Phất! Biết rõ các hành vô thưởng rồi Đại Bồ Tát chẳng kể thân mạng tu tập giới thanh tịnh thật hành chánh hạnh của Chư Bồ Tát làm, đó là sẽ thành mãn Thi La Ba la mật vậy.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Trụ Thi La thanh tịnh

Bồ Tát có thể dùng

Diệu sắc diệu âm thanh

Tế độ người ưa pháp

Mặt mắt đều viên tịnh

Chẳng đui điếc què gù

Các thân phần đoan chánh

Đều do tịnh giới sanh

Có đủ thế lực lớn

Chói rực oai quang lớn

Lại do tinh tấn huệ

Khiến ác ma kinh sợ

Vua chúa đều cúng dường

Trời Rồng đều tôn kính

Khéo dứt các lưới nghi

Siêng tu hành đại từ

An trụ tại giới tụ

Pháp hành danh xưng lớn

Khổ bức chẳng e sợ

Trọn chẳng đọa ác thú

Chúng sanh hôn mê ngủ

Bồ Tát đánh thức họ

Thường không có tạm ngủ

Cầu pháp khắp bốn phương

An trụ tại giới tụ

Vì cầu tại giới tụ

Xả thí thượng trân bửu

Vợ con xương thịt mình

Cầu giáo pháp vô thượng

Phải cung kính cúng dường

Các bậc đời dựa nương

Nếu bị người mắng nhiếc

Não hại cùng đánh đập

Thêm thương và khen họ

Là do được lòng nhẫn

Tu hành đúng như lời

Lời nói thường chẳng dối

An tọa Đạo Tràng rồi

Đại Địa đều chấn động

Với Phật Pháp không nghi

Bỏ rời đại chúng tà

Được nhân Thiên tôn thờ

Gọi là cúng Thế Tôn

Các chúng sanh thế gian

Dùng dao gậy hại nhau

Hay khiến họ hòa hiệp

Đây là trí Bồ Tát

Chúng sanh bị khổ nặng

Nhiều trăm câu chi kiếp

Dầu họ chẳng đến cầu

Bồ Tát chẳng bỏ họ

Bạn lành đàm luận chung

Do đây được nghĩa lợi

Mà chúng sanh chẳng cầu

Trở lại hại lẫn nhau

Bồ Tát đem trân bửu

Đầy khắp cả đại địa

Và quốc độ Chư Phật

Dùng để cầu thiện hữu

Giả sử lầy dao bén

Cắt dứt lìa thân ta

Với các chúng sanh ấy

Thường có lòng bình đẳng

Bỏ hành động kẻ ngu

Làm nhân duyên Phật Pháp

Thường giự giới thanh tịnh

An trụ pháp vi diệu

Tu Tập pháp tùy thuận

Hành diệu hạnh bồ đề

Tam minh huệ Cam Lộ

An trụ tại giới tụ

Tu học các Phật Pháp

Đây là người trí huệ

Trời người nên cúng dường

Biết rõ tất cả pháp

Khéo thấu các nghề giỏi

Hiểu sâu ý chúng sanh

Hoằng dương pháp vi diệu

Giới tụ đã thanh tịnh

An tọa cội Bồ Đề

Hàng phục quân ma dữ

Ngộ vô thượng Chánh Giác

Sáng soi khắp Thế Giới

Như tia sáng nhật nguyệt

Bồ Tát bậc tôn quí

Hay mở mắt huệ Thánh

Trao tay dìu chúng sanh

Hỏi đạo đều khai thị

Thường vui nhận lời người

Chẳng hề có ganh ghét

Bỏ vô lượng thân mình

Bố thí nhiều của báu

Chẳng hề có xa rời

Phật bồ đề tối thượng

Tín giới đã tròn đủ

Khéo trụ lời chắc thiệt

Chẳng hề có ảo ngụy

An trụ tại giới tụ

Người đến chỗ Bồ Tát

Hợc đặt lời hư vọng

Dầu nghe chẳng phản đối

Mà luôn nương lời thiệt

Nếu ai hứa Bồ Tát

Giả nói cho y thực

Trọn không đem đến cho

Bồ Tát không hề giận.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, vì đầy đủ Thi La thanh tịnh như vậy nên Đại Bồ Tát đối với các hành thường tưởng là chẳng nên ưa thích, với các chúng sanh trưởng là cha mẹ, với các hữu tình tưởng khó bảo toàn, với diệu ngũ dục tưởng chẳng phải diệu, với cảm giác hay biết tưởng chẳng hay biết. Có quan niệm như vậy rồi chẳng sanh khởi tâm bình đẳng chẳng bình đẳng.

Tại sao?

Lúc Bồ Tát quan niệm như vậy, nếu sẽ phát khởi tâm bất bình đẳng thì nên khiến nhiễm tâm chuyển đổi bất bình đẳng, suy gẫm rằng nhãn và sắc làm duyên mà sanh nhãn thức, nhiễm tâm sanh diệt đều do chủng tử mà tâm thể ấy phát sanh, đối cảnh sở duyên vọng tâm cho là tịnh. Nếu suy gẫm biết được nó là phi lý và thể chất bất tịnh thì được giải thoát, nếu giải thoát nó thì là nó hết.

Nó hết chỗ nào?

Đó là tham hết, sân hết, si hết. Hết như vậy thì chẳng phải tham hết sân hết si hết.

Tại sao?

Nếu sát na tham có tận diệt thì lẽ ra có tham khác hết khác. Như vậy thì lẻ ra tham là thiệt hết là thiệt. Nếu tham là thiệt thì lẽ ra chẳng diệt tận.

Nhưng này Xá Lợi Phất! Tất cả hữu tình đều do chẳng chánh tư duy chẳng tác ý đúng lý nên sanh tham dục, xét về tham dục do phân biệt mà khởi lên.

Nếu không phân biệt thì tình chấp dứt, nếu tình chấp dứt thì không có thiệt, do vì không thiệt nên trong đó không có tham, vì không tham nên tức là chân thật.

Nếu là chân thật thì trong ấy không khổ. Do vì không khổ thì không thiêu não. Vì không thiêu não nên tức là chân thật. Nếu là chân thật thì trong ấy không thật. Vì không nhiệt nên tức là thanh lương nên tức là Niết Bàn. Ở trong Niết Bàn không có tham ái.

Tại sao?

Này Xá Lợi Phất! Xét về Niết Bàn không có tư lự. Ta phải trừ diệt tham ái ấy. Vì tham ái hết nên gọi là được Niết Bàn. Nếu như vậy thì năng tham khác và sở tham khác, Niết Bàn lại khác. Đây nếu khác thì ở kia là kia.

Nếu ở kia là kia, người trí phải nên suy tầm chỗ thiệt của kia. Suy tầm rồi chẳng được chỗ chắc thiệt. Nếu không chắc thiệt thì là hư giả. Nếu là hư giả thì là tịch tĩnh. Nếu là tịch tĩnh thì là không.

Không có pháp gì?

Không có ngã và ngã sở hoặc thường hoặc hằng hoặc trụ hoặc biến dị thì không có hữu tình không có thọ giả. Do như vậy nên không có khởi tham sân si.

Này Xá Lợi Phất! Do cớ gì có ngã và ngã sở, chấp đây là ngã đây là ngã sở hữu?

Vì điên đảo chấp ngã nên chấp ngã sở hửu. Vì chấp ngã sở hữu nên có sở tác. Ở trong sở tác phát khởi bốn hành động, đó là thân sở tác, ngữ sở tác, ý sở tác, do ý tư duy khởi thô ác ngữ, từ đó bèn phát sanh vận dụng thân để làm hại.

Này Xá Lợi Phất! Tất cả phàm phu ngu si do vì họ phát khởi ý tưởng mình người dị biệt nên bị ý tưởng nó nắm, bị ý tưởng nó trói. Đại Bồ Tát do thật hành Thi La Ba la mật nên biết rõ sự ấy là điên đảo rồi chẳng quen gần các hành.

Tại sao?

Vì do quen gần mà sanh sợ sệt. Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta vì cầu không sợ sệt để độ các chúng sanh thì chẳng nên ở nơi kia mà sanh sợ sệt, ta phải cùng kia thân ái.

Này Xá Lợi Phất! Thế nào là đối với chúng sanh Đại Bồ Tát tưởng là cha mẹ?

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát nghĩ rằng từ đời lâu xa quá khứ đến nay không có một chúng sanh nào mà chẳng phải là cha là mẹ. Tất cả chúng sanh chắc chắn từng làm cha hoặc mẹ ta, do vì ở nơi họ sanh tâm tham nên bỏ ý tưởng là mẹ, sanh tâm sân nên bỏ ý tưởng là cha, mãi lưu chuyển sanh tử chẳng dứt. Suy nghĩ như vậy rồi ở nơi chúng sanh Đại Bồ Tát đều tưởng là quyến thuộc cả.

Này Xá Lợi Phất! Như thuở quá khứ vô số vô lượng bất tư nghị kiếp, bấy giờ có Phật Hiệu Tối Thắng Chúng xuất thế đủ mười hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện thệ, Thế Gian Giải, vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Phật ấy thọ chín câu chi năm cùng chín câu chi na do tha chúng đại Thanh Văn câu hội. Lúc ấy có Bồ Tát tên Đắc Niệm sanh tại Vương cung, thân hình đoan nghiêm khả ái có đủ sắc tướng tròn sạch đệ nhất.

Lúc Bồ Tát sơ sanh, Phụ Vương đã ban cho tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ, quyến thuộc lại tặng tám vạn bốn nghìn thể nữ trẻ đẹp, bạn hữu của Phụ Vương cũng tặng tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ đẹp, muốn lúc Bồ Tát lớn lên có người theo hầu.

Bấy giờ Phụ Vương lại vì Bồ Tát mà xây cung điện ba mùa: Điện mùa nóng, điện mùa mưa và điện mùa lạnh, để Bồ Tát theo mùa tùy ý ở. Lại còn ban cho trăm ngàn kỹ nhạc làm vui Bồ Tát. Lúc nghe nhạc âm nổi lên, Bồ Tát ấy có ý tưởng sanh diệt vô thường.

Lúc tiếng nhạc tạm dứt, Bồ Tát ấy suy tìm âm thanh ấy nương gì mà khởi, chỗ nào mà sanh, từ đâu mà dứt, chỗ nào mà mất. Lúc quan sát như vậy, Bồ Tát ấy chẳng còn ý tưởng ngày đêm sai biệt, chỉ luôn tưởng vô thường, tưởng không có gì đáng vui ưa ở thế gian cả.

Này Xá Lợi Phất! Trong bốn vạn năm, Bồ Tát Đắc Niệm chưa hề ham say âm nhạc, lại trong bốn vạn năm nữa, đối với ngũ dục chưa hề tham nhiễm.

Khi ấy Bồ Tát Đắc Niệm ở trong thâm cung nhập tứ tĩnh lự phát ngũ thần thông, liền dùng sức thần túc bay lên hư không thẳng đến chỗ đức Tối Thắng Chúng Như Lai thưa thỉnh được chút ít chánh pháp rồi trở về bổn cung.

Ngày đức Tối Thắng Chúng Như Lai nhập Niết Bàn, Bồ Tát Đắc Niệm lại đến chỗ ở của Phật hỏi Chư Tỳ Kheo hiện nay Đức Như Lai ở đâu, tôi muốn được hầu cận cúng dường. Chư Tỳ Kheo cho biết là Đức Phật Tối Thắng Chúng đã nhập Niết Bàn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần