Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Tám - Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ MƯỜI TÁM

PHÁP HỘI

HỘ QUỐC BỒ TÁT  

PHẦN BA  

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Bồ Tát có bốn pháp không hối tiếc: Một là chẳng phá hoại cấm giới, hai là ở A Lan Nhã, ba là thật hành, bốn Thánh chủng, bốn là đa văn, đây là bốn thứ pháp không hối tiếc.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Trì giới tịnh vô cấu

Dường như châu ma ni

Chẳng sanh lòng cống cao

Khoe tôi hay trì giới

Lại đem chánh giới ấy

Dạy lại cho nhiều người

Thường hoài vọng như vậy

Thành tựu nơi Phật Giới

Bồ Tát ở rảnh vắng

Nơi Lan Nhã thanh tịnh

Cũng chẳng nghĩ tưởng ngã

Tưởng thọ giả cũng không

Quan sát nam nữ sắc

Dường như những cỏ cây

Chẳng sanh tưởng nam nữ

Tưởng ngô ngã cũng không

An trụ bốn Thánh chủng

Không giải đãi siểm khúc

Chí tâm hằng tu hành

Xa lìa những phóng dật

Cầu công đức đa văn

Thường tinh cần tu tập

Nguyện thành nhất thiết trí

Chỗ công đức tối thượng

Chúng sanh ở lao ngục

Không được ai cứu hộ

Luân chuyển sanh tử mãi

Cầu tài tự cung cấp

Tôi sẽ cầu pháp thuyền

Vớt họ khỏi sanh tử

Biển phiền não khổ lụy

Đưa họ đến bờ kia

Chúng sanh không quy y

Cũng không người cứu hộ

Chúng sanh tại hữu vi

Không ai đưa họ ra

Tôi sẽ làm Đạo Sư

Cứu họ được giải thoát

Thế nên tôi phát tâm

Cầu chứng đạo bồ đề.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Bồ Tát có bốn hạnh điều phục phải thật hành:

Một là nguyện sanh xứ lành thường gặp Chư Phật.

Hai là cúng dường Sư Trưởng mà chẳng cầu báo.

Ba là thường thích rảnh vắng vứt bỏ lợi dưỡng.

Bốn là được biện tài vô ngại Đầu Đà nhẫn pháp.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Bồ Tát dũng mãnh thích núi rừng

Thường chẳng theo người cầu lợi dưỡng

Hằng được trí sâu vô ngại biện

Giỏi hay thông đạt các pháp tướng

Thường phải cúng dường các Sư Trưởng

Tùy thuận lời thầy không chống trái

Tùy chỗ sanh ra gặp Chư Phật

Cúng dường cung kính cầu bồ đề

Thường sanh xứ tốt danh tiếng cao

Ở Trời là tôn quí trong Trời

Lại được thành tựu đạo bồ đề

Dạy các chúng sanh hành Thập Thiện

Niệm Phật công đức thường hoan hỷ

Tôi cũng chẳng lâu thành Phật Đạo

Đã thành Chánh Giác đủ công đức

Cứu độ chúng sanh khỏi sanh tử.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Bồ Tát có Bốn pháp thanh tịnh hạnh bồ đề:

Một là lúc hành bồ đề không có tâm sân hận.

Hai là vứt bỏ quyến thuộc cung điện tài bảo thích ở núi rừng cũng chẳng khoe nói công đức của mình.

Ba là dầu bố thí mà chẳng cầu quả báo.

Bốn là tinh cần thích pháp chẳng thấy lỗi của thầy.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Bồ Tát tâm tịnh không oán hận

Cũng chẳng tìm tội lỗi của người

Mình chẳng siểm khúc không nhiễm trước

Hành đạo đại thừa cầu bồ đề

Thấy rõ ở nhà là gốc khổ

Gần kề ác hữu không chánh niệm

Do đó vứt bỏ đi xuất gia

Ở nơi núi rừng cầu giải thoát

Thường ở rảnh vắng tịch tịnh vui

Dứt hẳn ái niệm nơi quyến thuộc

Chẳng tiếc thân thể và mạng sống

Riêng đi không sợ như sư tử

Khất thực nuôi thân thường biết đủ

Như loài chim bay không chứa cất

Chẳng thích sanh Trời và nhân gian

Chỉ cầu Đạo bồ đề vô thượng

Riêng đi không bạn chỉ một mình

Hằng chẳng sợ sệt như sư tử

Sợ các phiền não như thú dữ

Nếu được lợi dưỡng lòng chẳng mừng

Thấy các chúng sanh luôn phóng dật

Từ bi thệ nguyện phá lỗi ấy

Vì tôi cứu hộ các chúng sanh

Nên thường hăng say siêng tinh tấn

Phàm có phát ngôn luôn thương mến

Với kẻ ghét thương luôn cười mỉm

Chẳng dính tất cả như gió thoảng

Chỉ nên cầu nơi hạnh trượng phu

Thường ưa tu tập không vô tướng

Xem pháp hữu vi như ảo hóa

Điều phục các căn ý lớn rộng

Đi đứng luôn ưa pháp cam lộ

Thường y Phật Giáo hành đại đạo

Hằng thường thanh tịnh nơi nội tâm

Cầu Đà La Ni và biện tài

Mang gánh các khổ cầu bồ đề

Bồ Tát thường quán công hạnh ấy

Hiện tiền lợi ích sanh hoan hỷ

Nếu chẳng ưa thích đạo bồ đề

Người này không ác gì chẳng tạo.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát:

Bồ Tát có bốn thứ pháp đọa lạc:

Một là chẳng cung kính người khác.

Hai là bội ơn siểm khúc.

Ba là nhiều cầu lợi dưỡng danh vọng.

Bốn là trá hiện hành tốt khoe mình giỏi.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Đối với cha mẹ và Sư Trưởng

Họ thường kiêu mạn không cung kính

Trái quên ân dưỡng lòng siểm khúc

Các căn tán loạn nhiều ngu si

Luôn nhớ lợi dưỡng chẳng thôi ngớt

Siểm khúc trá hiện tướng tinh tấn

Tự nói trì giới và khổ hạnh

Không ai có được như mình cả

Ác khẩu lời thô ưa tranh đấu

Thường tìm lỗi người chẳng thôi dứt

Họ luôn xa rời hạnh Sa Môn

Làm ruộng canh tác và buôn bán

Chư Tỳ Kheo trong đời vị lai

Vứt bỏ công đức và giới hạnh

Vì lòng tật đố và đấu tranh

Làm tổn hư mất chánh pháp Phật

Họ cách bồ đề rất xa vời

Họ cũng xa rời bảy thánh tài

Chống trái tám đường chánh giải thoát

Trôi lăn năm loài trong sanh tử.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Có bốn thứ pháp chướng đạo:

Đó là bất tín, giải đãi, ngã mạn và sân hận.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Bất tín giải đãi lòng ám độn

Lòng thường ngã mạn và sân hận

Thấy Chư Tỳ Kheo hành nhẫn nhục

Đuổi xua ra khỏi các Chùa Tháp

Nếu được lợi dưỡng lòng hoan hỷ

Đều nói ta là người thường trụ

Luôn tìm mọi cách vạch lỗi người

Người nào có tội tôi trị phạt

Những người như vậy xa chánh pháp

Ganh ghét công đức đọa tam đồ

Chán ghét pháp diệu của Chư Phật

Người này sẽ vào trong lửa lớn

Người này gây ác chẳng thôi dứt

Quyết sẽ chịu đủ khổ trong khổ

Thế nên Bồ Tát cầu bồ đề

Chớ để phải hối đọa ác đạo

Vô lượng ức kiếp Phật mới hiện

Để làm lợi ích cho chúng sanh

Bồ Tát đã được thân cõi lành

Phải bỏ phóng dật cầu giải thoát.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Phải bỏ bốn hạng người chẳng được gần kề họ:

Một là chẳng được gần kề ác tri thức.

Hai là chẳng được gần kề người chấp kiến.

Ba là chẳng được gần kề kẻ báng pháp.

Bốn là chẳng được gần kề người tham lợi dưỡng.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Hay xa ác tri thức

Gần kề thiện tri thức

Đạo bồ đề tăng trưởng

Như trăng lần tròn đầy

Xa lìa kẻ chấp kiến

Chấp ngã chấp thọ giả

Bỏ đi như độc

Để cầu nên Phật Đạo

Chê bai Phật chánh pháp

Vị cam lồ tịch tịnh

Nếu muốn cầu bồ đề

Phải tránh như phẩn dơ

Xa lìa tham lợi dưỡng

Cũng bỏ người ác hạnh

Hạng ấy chẳng nên gần

Như tránh hố lửa lớn

Nếu muốn hành phục ma

Chuyển pháp Luân Vô Thượng

Muốn cầu lợi đệ nhất

Mau xa ác tri thức

Bỏ ái và ghét xấu

Lợi danh cũng xa tránh

Muốn cầu đạo vô thượng

Thường tu trí của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ xong, lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát có bốn thứ pháp thọ khổ đời sau:

Một là khinh mạng người có trí.

Hai là thường ôm lòng tật đố.

Ba là ở nơi tất cả pháp không có lòng tin.

Bốn là ở nơi pháp tịnh trí thường nghi không nhẫn thọ mà cầu lợi dưỡng.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Người hầu gần Phật bậc có trí

Tất cả Trời người phải cúng dường

Mà lại cống cao lòng kiêu mạn

Do đó sẽ thọ vô biên khổ

Với pháp tịnh trí không tin nhận

Lợi dưỡng được cầu đều phi pháp

Thường hoài kiêu mạn và cống cao

Thấy người có trí không cung kính

Ở trong Phật Pháp không tin hiểu

Với chúng Hiền Thánh cũng chẳng tin

Người này thường đi trong ác đạo

Sanh làm thân người nhiều ngu si

Họ bỏ thọ mạng nhơn gian rồi

Ở Đại Địa ngục chịu khổ lớn

Nơi đây kiếp tận sanh phương khác

Súc sanh ngạ quỉ cũng như vậy

Nếu người muốn cầu được làm Phật

Thành thắng trượng phu hết các khổ

Thường phải xa rời nghiệp tam đồ

Tu các công đức thành Chánh Giác.

Nói kệ xong, Đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát:

Có bốn thứ trói buộc Bồ Tát:

Một là khinh mạn người khác.

Hai là nơi thiền định thế tục có lòng ưa thích chẳng cầu cứu cánh.

Ba là chẳng gìn giữ tâm mình, trí huệ chưa thành mà phóng dật.

Bốn là vì cầu lợi dưỡng mà vào nhà người khác.

Trên đây là bốn thứ trói buộc Bồ Tát.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Luôn luôn khinh mạn người

Ưa thích thế gian thiện

Tham trước các kiến phược

Như voi lún bùn sâu

Ưa vào nhà bạch y

Thường có lòng phóng dật

Tối ngu không trí huệ

Hạnh ấy tên trói buộc

Muốn dứt khổ sanh tử

Xa rời hẳn tam giới

Phải bỏ lòng kiêu mạn

Thường hành đạo Bồ Tát

Chịu lấy vô biên khổ

Vứt bỏ các sự vui

Cũng rời lìa thương ghét

Thành Phật không nhiễm trước

Bồ Tát phải thường tu Lục Độ

Các địa các trí các lục thảy

Tất cảc công đức nếu thành tựu

Thì được thoát khỏi lưới sanh tử

Phật ở vô lượng kiếp xa xưa

Vì các chúng sanh cầu bồ đề

Thường hành bố thí để điều phục

Bỏ lìa ân ái tu chánh đạo

Hằng chẳng xa rời chỗ vắng vẻ

Khổ hạnh ốm gầy cầu bồ đề

Phấn khởi tinh tấn không lười biếng

Cầu được trí trượng phu tối thắng

Thấy các chúng sanh tại Tam Giới

Luân chuyển năm loài chịu sanh tử

Thương xót tất cả khởi đại bi

Do đó mà cầu bồ đề Đạo

Bỏ lìa con cưng và thê thiếp

Cũng bỏ của cải bảy báu thảy

Thọ mạng Quốc Độ và Đại Địa

Để cầu bồ đề Phật trí huệ

Thuở xưa Phật ở núi rừng tốt

Làm tiên tu hành tên nhẫn nhục

Bị Vua Ca Lợi xẻo tai mũi

Máu biến làm sữa không lòng hờn

Thuở xưa từng làm con hiếu thảo

Yêu mến cúng dường cha và mẹ

Bị tên độc kẻ ác bắn trúng

Bấy giờ cũng không lòng oán giận

Chẳng tiếc mạng sống nhảy gộp cao

Để cầu lời lành Chư Phật dạy

Bấy giờ cũng không thấy thân mạng

Chỉ để thành đại sự bồ đề

Thuở xưa thương xót các thú đói

Thí thịt thân mình cho tám cọp

Bấy giờ Chư Thiên ở hư không

Khen rằng lành thay đại trượng phu

Thuở xưa ưa làm đại thí chủ

Từng làm tịnh hạnh Bà La Môn

Vì thương chúng sanh khổ đói nghèo

Vào biển cầu tìm châu như ý

Rồi bị thần biển cướp lấy mất

Bấy giờ ta cố tát biển cả

Liền được bảo châu về Diêm Phù

Dùng cứu giúp chúng sanh nghèo thiếu

Cũng từng làm Vua tên Tô Ma

Cho đến mất mạng chẳng nói dối

Các Vua do ta được giải thoát

Tiếng tăm vang dội khắp mười phương

Xưa ta từng thấy người nghèo cùng

Ta đang làm Vua đem thân thí

Khiến họ giàu to nhiều của báu

Nên ta được hiệu thí tất cả

Xưa ta từng làm Vua Thi Tỳ

Chim câu kinh sợ đáp lòng ta

Ta đem thân mình thay mạng chim

Cho chim thoát khỏi sự khủng bố

Xưa ta làm Vua tên Sư Tử

Thân mạng bệnh nặng thầy cho thuốc

Có người bệnh đến xin thuốc ấy

Ta chẳng tiếc thân cho họ trước

Xưa ta tu hành vì chúng sanh

Làm Vương Tử tên Tô Đạt Noa

Có người đến xin con và vợ

Ta chẳng hề tiếc đều cho cả

Từng làm Bồ Tát tên Nghiêm Xí

Vì cảm hóa tài đức Quốc Vương

Trải qua tám vạn bốn ngàn năm

Cố gắng tinh tấn mới cảm hóa

Cũng làm Vương Tử tên Tịnh Oai

Tự đốt thân mình cúng Tháp Phật

Cung kính cúng dường Đấng Thập Lực

Vô Thượng Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn

Từng làm Quốc Vương tên Nguyệt Quang

Có người phạm chí tên Khả Úy

Theo ta cầu xin trọn cái đầu

Ta liền mau mắn đem đầu thí

Lại làm Quốc Vương tên Phước Đức

Ở trong các tụ lạc phố phường

Chứa đầy thuốc men và thực phẩm

Để ban cho tất cả chúng sanh

Từng làm Quốc Vương tên Nhật Tịnh

Kỹ nữ xinh đẹp đủ ngàn người

Chuỗi ngọc bảy báu trang nghiêm đầu

Hoa hương đẹp thơm dùng nghiêm sức

Cũng đem bố thí cho mọi người

Lại làm Quốc Vương tên Tri Túc

Tay chân dịu mềm như bông tơ

Sắc đẹp sạch trong như hoa sen

Cũng đem bố thí các chúng sanh

Lại làm thương chủ tên Tịnh Nhãn

Đem năm trăm người tìm bảy báu

Các quỉ La Sát hiện mỹ nữ

Thương chủ cứu thoát cả đoàn người

Từng làm Vương Tử tên Phước Diệm

Thê thiếp kỹ nữ đến số ức

Thân hình xinh đẹp như Thiên Nữ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần