Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bảy - Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI BẢY
PHÁP HỘI
BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT
PHẦN BA
Này Bất Khả Thuyết! Nếu Bồ Tát có thể biết được như vậy, nên biết người ấy được thọ ký vô thượng bồ đề.
Lúc Phật nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Được nhẫn rồi, chư Bồ Tát ấy thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la chắp tay cung kính nói kệ rằng:
Nếu hay quán sắc ấm phần này
Và bất khả thuyết không hai tướng
Người này liền được trí bình đẳng
Cũng như Phật trước đã chứng được
Quán bốn ấm thọ tưởng hành thức
Cũng không sắc ấm không có hai
Chân thiệt biết rõ bất khả thuyết
Liền được thọ ký như Phật trước
Và tất cả pháp không hai tướng
Không tiếng không chữ không có tiết
Vì vậy các pháp bất khả thuyết
Bất khả thuyết phần tam thế phần
Tức là nhất phần không sai biệt
Thiệt tánh chân tướng đều bình đẳng
Quán như vậy là chân Bồ Tát
Tham dục sân hận và ngu si
Không vô tướng nguyện đều bình đẳng
Sanh tử Niết Bàn không sai biệt
Phật Pháp Tăng cũng không có hai
Nghĩa của các pháp bất khả thuyết
Không có sanh diệt như hư không
Không tác không thọ như ngọn lửa
Có duyên thì sanh không duyên diệt
Diệt rồi không có chỗ đến đi
Tất cả các pháp cũng như vậy
Các pháp đều từ nhân duyên sanh
Vì nhân duyên dứt nên gọi diệt
Nếu các pháp bất sanh bất diệt
Cũng lại chẳng thường cũng chẳng đoạn
Tức là thậm thâm thập nhị duyên
Còn chẳng theo duyên mà xuất sanh
Vốn không có sanh mà nay sanh
Vốn không có xuất mà nay xuất
Không có tạo tác không thọ gỉa.
Không có các nhân và quả báo
Cũng chẳng phải có chẳng phải không
Chẳng có thử bỉ hai thứ tướng
Cũng chẳng tại nội chẳng tại ngoại
Tức là thậm thâm thập nhị duyên
Pháp ấy vốn không mà nay có
Pháp có rồi sau trở lại không
Nếu là pháp có tam thế nhiếp
Tánh tướng nó như trên đã nói
Nếu là nội pháp trung ngoại không
Tánh của ngoại pháp nội trung không
Tất cả các pháp cũng như vậy
Đây là đệ nhất chân không nghĩa
Tất cả chúng sanh tâm bổn tánh
Thanh tịnh không nhơ như hư không
Phàm phu chẳng biết tâm tánh không
Nói bị khách phiền não ô nhiễm
Nếu khách phiền não làm tâm nhơ
Trọn chẳng sạch được như hờm bẩn
Vì khách phiền não che chướng tâm
Nói rằng phàm phu tâm bất tịnh
Như tâm tánh ấy là bổn tịnh
Lẽ ra phiền não khách che chướng
Vì vậy nên chẳng được giải thoát
Tâm chẳng sanh được thứ đệ tâm
Tâm chẳng thấy được thứ đệ tâm
Tất cả các tâm từ duyên sanh
Vì vậy thứ đệ tâm chẳng dứt
Có thể thấy biết tâm như vậy
Dường như hư không và tướng huyễn
Người ấy liền được tâm tự tại
Cũng hay thấy rõ thứ đệ tâm
Dường như ảo sư làm ảo tướng
Vô lượng thế nghiệp sư cũng vậy
Như tâm chúng sanh cũng như vậy
Biết rõ thì được tâm tự tại
Nếu người hay được nhẫn như vậy
Dường như ảo huyễn không nhân duyên
Biết được như vậy chẳng sanh tham
Chẳng do nhân duyên được giải thoát
Tất cả chúng sanh các tâm tánh
Như Lai nói là tam thế nhiếp
Dường như vật áo không chân tánh
Tâm các chúng sanh cũng như vậy
Tâm hay biết rõ các chúng sanh
Chúng sanh cũng hay rõ nơi tâm
Tâm chẳng phải sắc chẳng thấy được
Như tâm chúng sanh cũng như vậy
Như chúng sanh tánh chư pháp tánh
Tánh pháp vô vi bất khả thuyết
Như Lai biết rõ chân pháp tánh
Vì vậy gọi là vô ngại trí
Tất cả phàm phu chẳng thấy biết
Lưu chuyển trong vô lượng sanh tử
Bị vô minh che me chân thiệt
Chẳng biết như vậy và pháp giới
Tánh của pháp giới như hư không
Tất cả thế gian chẳng nói được
Như Lai tu tập đại từ bi
Trong pháp không chữ mà diễn nói
Dường như thế gian sáu mùi vị
Riêng riêng đều chẳng tự hay biết
Chúng sanh dầu nói ấm giới nhập
Mà chẳng rõ biết tánh tướng nó
Chúng sanh hư không và ảo huyễn
Vì xa lìa tất cả điên đảo
Nên gọi đây là tịnh trí huệ
Như Lai biết rõ tất cả pháp
Không tác không thọ như cỏ cây
Nếu hay quán sát pháp như vậy
Người ấy liền được vô sanh nhẫn
Nếu có vô lượng Chư Bồ Tát
Chúng được vô sanh nhẫn như vậy
Người ấy liền được vô lượng Phật
Thọ ký bồ đề Vô Thượng Đạo
Nếy hay buông bỏ nội ngoại vật
Nhẫn đến chẳng tiếc thân mạng mình
Hay điều tất cả các chúng sanh
Người ấy liền được Phật thọ ký
Nếu hay thanh tịnh các chúng sanh
Đã thanh tịnh rồi chẳng kiêu mạn
Nói các chúng sanh đều thanh tịnh
Do nhân duyên ấy được thọ ký
Nếu biết các pháp niệm niệm diệt
Vì chúng sanh mà tu nhẫn nhục
Lại hay diễn nói chúng sanh nhẫn
Nhân nơi nhẫn này được thọ ký
Xa lìa ác pháp siên tinh tiến
Tu tập thiện pháp chẳng thôi nghỉ
Lại hay diễn nói siêng tinh tiến
Nhân tinh tiến mà được thọ ký
Tất cả các pháp bổn tánh tịnh
Bình đẳng không khác như hư không
Lại hay diễn nói bình đẳng ấy
Nhơm tam muội này được thọ ký
Nếu hay biết pháp bất khả thuyết
Lúc nói chẳng sanh lòng kinh sợ
Hay dùng phương tiện hóa chúng sanh
Do nơi trí này được thọ ký.
Lúc bấy giờ Ma Vương đem bốn binh chủng, dù là xa binh, mã binh, tượng binh và bộ binh đến chỗ Đức Phật.
Ma Vương tự hóa thân làm tượng Tỳ Kheo nói với Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng: Này Đại Sĩ! Ma Vương Ba Tuần nay đem bốn binh chủng đến chỗ Phật, nay Ngài muốn sắp đặt phương tiện gì?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Nếu ông ấy đến đây tôi sẽ làm cho ổng phát tâm vô thượng bồ đề.
Tỳ Kheo nói: Này Đại Sĩ! Ma Vương Ba Tuần ấy đều không có tâm lành làm sao khiến ông phát tâm bồ đề được?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Tôi sẽ điều phục khiến ổng được tâm lành, được tâm lành rồi do nhân duyên ấy mà ổng phát tâm vô thượng bồ đề.
Ta sẽ điều phục ổng thế nào?
Ta sẽ ở cung Trời Tha Hoá Tự Tại kia làm chủ cảnh giới ấy, cung Trời kia sẽ thuộc về ta. Đã thuộc về ta rồi ta sẽ tùy ý mà điều phục họ.
Ma Vương nghe lời ấy lòng rất lo sợ liền muốn lui về mà không thể được, tự nghĩ rằng nay đây ta đã chẳng bị trói lại chẳng thoát được, lại cũng chẳng thể hiện sức thần thông. Lúc ấy Ma Vương liền nghe trong hư không có tiếng nói rằng đây là thần thông lực của Bất Khả Thuyết Bồ Tát.
Ma Vương liền đến lễ lạy Bất Khả Thuyết Bồ Tát mà sám hối rằng: Nay tôi bỏ lìa tất cả ma nghiệp.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Này Ba Tuần! Ai trói buột ông?
Ma Vương nói: Thưa Đại Sĩ! Tôi không có trói thả mà chẳng đi được.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Này Ba Tuần! Như nay ông chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được, tất cả chúng sanh cũng như vậy, chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được. Tại sao, vì bị vô minh ái v.v... điên đảo trói buộc mà chẳng được giải thoát.
Này Ba Tuần! Nay ông muốn phá hoại sự trói buộc thì ông phải mau phát tâm vô thượng bồ đề.
Ma Vương hỏi: Thưa Đại Sĩ! Tất cả chúng sanh thành tựu mấy pháp thì có thể phát tâm vô thượng bồ đề?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Chúng sanh thành tựu mười sáu pháp thì có thể phát tâm vô thượng bồ đề.
Những gì là mười sáu pháp?
Đó là: Thường tu thượng tâm mài sáng các căn, siêng làm các thiện pháp trang nghiêm công đức, chí tâm trì giới chẳng sanh lòng hối nhàm. Tu tập đại bi thương xót chúng sanh, tin Phật Thế Tôn có đại từ bi, vì các chúng sanh thọ làm các điều khổ, hay phá các khổ não của chúng sanh, điều phục các căn, có đủ chánh niệm.
Tâm không kinh sợ, chẳng cầu các cõi, thích cầu Phật trí, chẳng thích nhị thừa, thọ vui chẳng kiêu, thọ khổ chẳng hối, cung kính bậc trí huệ, phá hoại kiêu mạn, biết ơn báo ơn, có đủ sức lực nơi thân hộ trì chánh pháp chẳng dứt Tam Bảo. Đây là mười sáu pháp vậy.
Này Ba Tuần! Nếu chúng sanh có đủ mười sáu pháp như vậy, nên biết rằng người ấy có thể phát tâm vô thượng bồ đề.
Ma Vương nói: Thưa Đại Sĩ! Nếu chúng sanh có đủ các pháp như vậy có thể phát tâm vô thượng bồ đề, nay tôi thiệt không có các pháp ấy thì làm sao phát tâm vô thượng bồ đề được.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Như trồng cây là vì bông trái hột. Lúc đầu đầu chưa có, nên biết về sau chắc sẽ được chẳng nghi. Chúng sanh nếu hướng về bồ đề Tâm mà tu hành cũng lại như vậy, dầu chưa hiện hữu mà lần lần sẽ được mười sáu pháp ấy.
Ma Vương nói: Lành thay lành thay!
Thưa Đại Sĩ! Đúng như lời Ngài nói. Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn Chư Thiên và thế nhân phát tâm vô thượng bồ đề.
Ma Vương hỏi: Thưa Đại Sĩ! Thế nào là hướng về bồ đề tâm mà tu hành?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Có ba mươi hai pháp hướng về bồ đề tâm mà được tăng trưởng.
Một là chí tâm.
Hai là định tâm.
Ba là tịnh tâm.
Bốn là nguyện dục tâm.
Năm là tâm chẳng phóng dật.
Sáu là tu tập thiện pháp.
Bảy là trang nghiêm xu hướng vô thượng bồ đề.
Tám là hay dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh.
Chín là thích là phương tiện.
Mười là điều phục chúng sanh.
Mười một là hay thành thực chúng sanh.
Mười hai là có thể biết nhân duyên.
Mười ba là siêng tu tinh tiến.
Mười bốn là thân cận thiện hữu.
Mười lăm là có đủ tín tâm.
Mười sáu là vì có tín tâm bèn sanh lòng hoan hỉ.
Mười bảy là cúng dường cung kính Sư Trưởng, Hoà Thượng người có đức.
Mười tám là có thể săn sóc người bệnh khổ.
Mười chín là có thể thiện tư duy.
Hai mươi là như pháp mà trụ.
Hai mươi mốt là vì hộ pháp mà chẳng tiếc thân mạng.
Hai mươi hai là thành tựu tổng trì.
Hai mươi ba là có đủ niệm tâm.
Hai mươi bốn là hay nói thâm pháp.
Hai mươi lăm là đầy đủ trí huệ.
Hai mươi sáu là có đủ các lực.
Hai mươi bảy là nguyện muốn bồ đề.
Hai mươi tám là chẳng bỏ chúng sanh.
Hai mươi chín là tu tập tâm từ bi hỉ xã.
Ba mươi là du nơi sanh tử mà chẳng sanh hối.
Ba mươi mốt là vì thọ thân mà trang nghiêm trí huệ.
Ba mươi hai là biết tất cả pháp chẳng tuyên nói được.
Đây là ba mươi hai pháp hướng về bồ đề tâm mà được tăng trưởng.
Bồ Tát có thể tăng trưởng những pháp này quyết được vô thượng bồ đề.
Này Ba Tuần! Ví như đêm mùa thu, mặt trăng đầu tháng tăng trưởng cũng sáng cũng tịnh. Chúng sanh chưa phát tâm vô thượng bồ đề có đủ ba mươi hai pháp cũng như vậy.
Này Ba Tuần! Bồ Tát nếu có thể đủ ba mươi hai pháp như vậy thì được thân có sắc tướng đẹp, thường được nhân thiên cúng dường, có thể bỏ tất cả chẳng cầu quả báo, phát đại thệ nguyện, thanh tịnh ba đời, trì giới hoàn toàn thanh tịnh chẳng lậu chẳng phá.
Tu tập nhẫn nhục, được pháp lành từ nội nghe, vô sanh pháp nhẫn trang nghiêm thiện pháp, thân tâm tịch tĩnh chẳng tham thiện căn, trọn chẳng tu tập ưa thèm các thiền, cũng chẳng tu tập duyên chúng sanh từ.
Chỉ tu pháp Duyên và vô duyên từ, tu tập đại bi, làm việc làm của người, biết ơn báo ơn chẳng bỏ chúng sanh, thích nghe chánh pháp như chỗ được nghe mà diễn nói.
Lúc thuyết pháp không có ý tưởng tham lợi danh, hay điều tự và tha rời lìa tâm tham sân, dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thủ chúng sanh, tu hành hai thứ phước trí trang nghiêm Tỳ bà xá na và Xa ma tha, đầy đủ niệm tâm thanh tịnh các oai nghi, thành tựu được tứ vô ngại trí, thân khẩu ý ba nghiệp theo nơi trí huệ, tâm trí kiên cố không có thối chuyển, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Này Ba Tuần! Ví các chúng sanh nhập vào Phật Pháp nên hiển thị cácvăn tự âm thanh diễn thuyết. Trong đệ nhất nghĩa đếu không có văn tự âm thanh diễn nói như vậy. Đây thì gọi là nhất thiết pháp tánh. Nhất thiết pháp tánh, tánh ấy chẳng nói được.
Ba Tuần hỏi: Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp chẳng nói được ấy, làm sao Bồ Tát phát đại thệ nguyện hướng đến bồ đề?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Ví như hư không tánh vô biên, trong ấy chừng có thể làm ao làm giếng được chăng?
Ba Tuần nói: Chẳng được, Thưa Đại Sĩ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Nếu tất cả pháp tánh không có chẳng nói được ấy thì trọn chẳng thể chứng chẳng thể tuyên nói.
Ma Vương hỏi: Thưa Đại Sĩ! Thế nào gọi là Phát bồ đề Tâm?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Biết rõ tham tánh thì gọi là phát tâm. Nếu biết rõ sân, si xan lẫn, tật đố, ám, nhập, giới, vô minh đến sanh Lão Tử khổ lớn, đây gọi là phát tâm.
Ma Vương hỏi: Thưa Đại Sĩ! Tất cả các pháp có những tánh gì?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Tất cả các pháp, vô xuất là tánh.
Ma Vương hỏi: Thưa Đại Sĩ! Thế nào là vô xuất?
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Ba Tuần! Luận về vô xuất tức là không có dấu vết của ma. Dấu vết ma ấy tức là ngã và ngã sở. Lìa ngã và ngã sỡ thì gọi là vô xuất. Giác quán nhân duyên hành tưởng họp lấy, nói tưởng Phi Tưởng, sanh diệt thiện ác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, thế xuất thế, đây tức là dấu ma. Nếu không các điều ấy tức là vô xuất. Lúc nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Trong hư không phát ra tiếng nói: Lành thay, lành thay, này Ba Tuần! Lúc nói pháp ấy có tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Ma Vương hỏi hư không: Bồ Tát có đủ những pháp gì mà được vô sanh nhẫn?
Tiếng trong hư không đáp rằng: Người tu tập đầy đủ Sáu Ba la mật thì được vô sanh nhẫn.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai vì chư Bồ Tát mà nói về bất khả thuyết.
Đức Phật nói: Này Bất Khả Thuyết! Nếu có Bồ Tát lúc hành Đàn Ba la mật, quán thân như ảo huyễn, quán thọ như mộng mơ, quán bồ đề như hư không, lúc làm bố thí chẳng thấy một pháp, đây gọi là Đàn Ba la mật bất khả thuyết.
Nếu Bồ Tát quán giới và giới địa, hủy giới và hủy giới địa, quán các chúng sanh không có ngã tánh, quán chư pháp tánh, đây gọi là trì giới chẳng hủy phá giới, đủ giới rồi chẳng phát ba nhãn:
Một trì giới nhãn, hai phá giới nhãn, ba Bồ Tát nhãn, dầu trì giới mà chẳng cầu một pháp, chẳng thấy bồ đề quá khứ vị lai hiện tại. Đây gọi là lúc hành Giới Ba la mật bất khả thuyết.
Nếu Bồ Tát quán các chúng sanh bất sanh bất xuất mà tu nhẫn nhục, quán bồ đề chúng sanh và các pháp thảy đều không tịch, trong chúng sanh rỗng không chẳng có tâm giận mừng, cũng lại chẳng hay biết tướng một pháp oán thù mà tu nhẫn nhục, cũng lại chẳng biết xa lìa một pháp mà tu nhẫn nhục, đây gọi là nhẫn Ba la mật bất khả thuyết.
Nếu Bồ Tát siêng tu hành tinh tiến trọn không thấy có thân khẩu ý ba nghiệp là sanh là diệt mà tu tinh tiến, chẳng hoại pháp giới, vì độ chúng sanh mà tu trang nghiêm hư không vô ngã chẳng sanh lầm loạn.
Ví muốn đầy đủ tất cả Phật Pháp mà hành trang nghiêm, nghe nói Phật Pháp tức là không có pháp, trong sự ấy chẳng sanh lòng kinh sợ, thanh tịnh trang nghiêm má quán đó như hư không, cũng chẳng trang nghiêm chuyển chánh pháp luân, tại sao, vì tất cả các pháp chẳng nói được vậy, đây gọi là tiến Ba la mật bất khả thuyết.
Nếu Bồ Tát tu thiền Ba la mật, tu rồi chẳng thấy quá khứ tâm tánh, tịnh bổn tánh rối chẳng thấy trụ xứ, cũng chẳng thấy tâm tham sân si, tâm thượng trung hạ tâm huệ vô tham vô sân vô si, cũng chẳng phân biệt, tại sao, vì như tánh tham sân si thì vô tham vô sân vô si cũng như vậy, quán như vậy rồi cũng nhập thiền định.
Cũng chẳng có thể bình đẳng, bình đẳng cũng chẳng có thể lấy pháp bất bình đẳng mà làm bình đẳng, cũng chẳng rõ biết ấm giới nhập, thiện ác, tịnh uế, hữu lậu vô lậu, thế gian xuất thế gian, sanh tử Niết Bàn các pháp đối trị, đây gọi là thiền Ba la mật bất khả thuyết.
Thế nào gọi là chẳng thể tuyên nói bát nhã Ba la mật?
Nếu không có huệ hành, không có ngã ngã sở, không có chúng sanh thọ mạng sĩ phu, không có đoạn thường hữu vô các kiến chấp, không có Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, đây gọi là vô hành. Không có tranh tụng không có khứ không có lai đây gọi là tùy theo huệ hành. Rời lìa tối vô minh và ác tà kiến quán pháp như vậy tức là chân thiệt quán.
Này Bất Khả Thuyết! Lúc hỏa tai khởi lên đốt hết tất cả vô minh nhân duyên chỉ trừ hư không. Lúc Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng nói được ấy cũng như vậy, không có nhân duyên thấy tất cả pháp bổn tánh tận diệt, do phương tiện mà vì chúng sanh nói Niết Bàn, cũng biết chúng sanh không có danh tự do phương tiện nên tuyên nói danh tự, do huệ lực biết quá khứ vị lai nói sanh diệt, dầu biết không có thân tâm mà do phương tiện nên nói thân tâm.
Dầu biết các pháp chẳng thể tuyên nói mà vì chúng sanh nên phương tiện tuyên nói, dầu biết không có người thí kẻ thọ mà vì phương tiện nên nói bố thí nói thọ lãnh, dầu biết các pháp bổn tánh thanh tịnh mà vì phương tiện nên nói có cấm giới, dầu biết các pháp vốn không tánh sân mà vì phương tiện nên tu nhẫn nhục, dầu biết không có tu không có viễn ly mà vì phương tiện nên siêng tu tinh tiến.
Dầu biết các pháp bổn tánh tịch tĩnh mà vì phương tiện nên tu hành thiền định, dầu biết không có sanh tử Niết Bàn mà vì phương tiện nên tu tập trí huệ, dầu biết các pháp bổn tánh tự diệt mà vì phương tiện nói Niết Bàn tức là Bát Nhã.
Luận về Bát Nhã ấy, không có chữ chẳng nói được, chẳng thể thấy được, chẳng thể nghe được, không có tâm ý thức, chẳng thủ chẳng xả.
Chẳng phải ngã ngã sở. Chẳng phải có xứ sở, chẳng phải có hình chất quy củ, chẳng cao chẳng hạ, chẳng phải sắc chẳng phải thấy, chẳng phải đối đãi.
Chẳng phải tạo tác, chẳng phải giác, chẳng phải tưởng, không có trụ xứ, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải hư không, chẳng phải nội chẳng phải ngoại, chẳng phải làm.
Chẳng phải có, chẳng phải mập chẳng phải gầy, chẳng phải tăng chẳng phải giãm, bổn tánh thanh tịnh chẳng phải tham sân si, chẳng phải cuồng loạn, không có biên tế, chẳng thể cân lường, đây gọi là bát nhã Ba la mật bất khả thuyết.
Lúc nói pháp ấy, Ma Vương Ba Tuần ở nơi trói buộc được mở thoát, lòng rất vui mừng liến nói rằng: Như nay tôi nghe pháp bất khả thuyết mà được giải thoát. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe pháp ấy cũng sẽ như tôi ở trong điên đảo mà được giải thoát, tất cả chúng ma chẳng được tiện lợi.
Lúc ấy trong đại hội có một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.
Bấy giờ Tôn Giả A Nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chánh pháp như vậy gọi tên là gì và phụng trì thế nào?
Đức Phật nói: Này A Nan! Kinh này gọi là Phương Đẳng Đại Tập, cũng gọi là Bất Khả Thuyết Pháp, cũng gọi là Nhập Nhất Thiết Phật Pháp Đoạn Nhất Thiết Phật Sở Hữu Danh Tự. Nếu có người có thể đảnh đới thọ trì pháp như vậy thì có thể được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc ấy trong hư không trỗi nhiều kỹ nhạc nhiều hương hoa cúng dường Bất Khả Thuyết Bồ Tát, Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách.
Đức Phật nói Kinh này rồi, Tôn Giả A Nan đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, Nhân, Thiên đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nhuận Trạch - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Vô Nhi Bình đẳng Tối Thượng Du Già đại Giáo Vương - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Phạm Thiên Thưa Hỏi - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Hai - Tiểu Phẩm - Kinh Ràhula
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Năm Mươi Tám - Phẩm Thậm Thâm