Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bảy - Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI BẢY

PHÁP HỘI

BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT  

PHẦN HAI  

Thưa Đại Đức! Như trong túi có tiến sư tử rống, có tiếng kêu của các loại chim, tiếng người, tiếng bò, tiếng lừa, tiếng ngựa, âm vang tùy theo tiếng phát ra. Âm vang thiệt không có sai biệt mà tùy theo tiếng phát ra nên âm vang chẳng đồng. Tam giải thoát môn của Như Lai và Thanh Văn cũng như vậy.

Như Lai có thể phá tất cả ma chúng, thắng tất cả ngoại đạo tà kiến, hay biết tâm niệm của tất cả chúng sanh, hay biết các loại sở hành của tất cả chúng sanh, hay điều các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, hay phát âm thanh Chư Phật Thế Tôn. Người Thanh Văn dầu đồng pháp giới mà chẳng đồng làm các sự như vậy.

Thưa Đại Đức! Như cây mía, vị ngọt của nó dầu là một, mà sản xuất bạch thạch mật cho người phước đức, sản xuất hắc thạch mật cho người bạc đức.

Pháp Giới nhất vị cũng như vậy, Đại Bồ Tát thì được vị đại trí cam lộ chẳng tạp vị Thanh Văn, vị Bích Chi Phật. Còn hàng Thanh Văn chỉ được vị trí hữu biên.

Thưa Đại Đức! Như Đại Thiên Thế Giới có nhiều đại hải làm lợi cho vô lượng vô biên chúng sanh, cũng có những con sông nhỏ lợi ích cho phần ít chúng sanh. Pháp giới cũng như vậy.

Thưa Đại Đức! Như nhật nguyệt tinh tú đều ở trên không, sáng của tinh tú không bằng nhật nguyệt, tánh hư không ấy thiệt không có sai biệt.

Pháp Giới cũng vậy, Như Lai và Thanh Văn dầu đều đi ở nơi ấy mà trí huệ quang minh thiệt chẳng đồng chẳng bằng nhau, nhưng pháp giới tánh vẫn không sai biệt.

Thưa Đại Đức! Như có hai người đồng học một nghề, một người khéo giỏi được nhiều lợi ích, một người vụng dở được lợi không bao nhiêu. Như Lai Thanh Văn và pháp giới cũng vậy.

Thưa Đại Đức! Như bông vải không có sai biệt. Do phương tiện khéo nên được y thượng giá, vì phương tiện vung nên được y hạ giá. Pháp Giới nhất tánh cũng như vậy. Như Lai do dùng trí huệ phương tiện đại từ đại bi nghiệp nhân duyên ấy nên được đại tịch tĩnh vô giá trí huệ. Hàng Thanh Văn được hạ trí huệ mà chẳng thanh tịnh.

Thưa Đại Đức! Như trong đại hải có La Hầu A Tu La Vương mà cũng có các loại chúng sanh khác, nhưng chỉ có A Tu La Vương là có thể đứng đến đáy biển, các loại khác thì không được. Pháp giới cũng vậy, Như Lai thì được cứu cánh trí huệ, còn Thanh Văn thì không được.

Thưa Đại Đức! Như Đại Địa sản xuất hoa ngàn cánh cũng sản xuất hoa bảy cánh, Chư Thiên và thế nhân thấy hoa ngàn cánh đều vui mừng. Như Lai Thanh Văn pháp giới cũng như vậy. Chư Thiên và thế nhân thấy Phật đều vui mùng lòng ưa mến, hàng Thanh Văn chẳng được như vậy.

Thưa Đại Đức! Do những nghĩa như vậy, nên Như Lai trí huệ vô lượng vô biên, còn pháp giới tánh vẫn không sai biệt.

Vô Úy Bồ Tát nói với Bảo Nữ rằng: Này Bảo Nữ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy quyết định là thầy của cô, hay dùng diệu pháp điều phục nơi cô.

Bảo Nữ nói: Thưa Pháp Huynh! Bất Khả Thuyết Bồ Tát không có chỗ điều phục, tại sao, Bồ Tát như vậy chẳng thấy tự chẳng thấy tha và chẳng thấy đây kia, như thế ấy thì dùng gì điều phục.

Này Pháp Huynh! Nếu người chẳng thấy biết tất cả cảnh giới và tự cảnh giới, người như vậy thì có thể điều phục.

Còn nữa, này Pháp Huynh! Nếu có thể thấy biết tất cả pháp chẳng thấy có ngả và ngả sở, người như vậy thì có thể điều phục.

Còn nữa, này Pháp Huynh! Nếu người có thể siêng tu khổ hạnh, cũng khuyên người siêng tu khổ hạnh rồi mà chẳng sanh cao, người như vậy thì có thể điều phục.

Còn nữa, này Pháp Huynh! Như Chư Bồ Tát vì chúng sanh nên ở sanh tử liền được giải thoát chẳng hiện Niết Bàn, người như vậy thì có thể điều phục, đây gọi là đệ nhất thiệt nghĩa điều phục.

Đức Phật nói: Này Vô Úy! Bảo Nữ ấy chân thiệt từ Bất Khả Thuyết Bồ Tát kia mà được điều phục. Vì điều phục nên vị lai sẽ được vô thượng bồ đề.

Bảo Nữ bạch đức pháp rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thiệt không có điều phục. Nếu điều phụ cấy tức là đại bi. Bi hay điều phục chẳng phải người ấy vậy. Người Thanh Văn thì cần phải điều phục, tại sao, vì không có đại bi vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Như trái trên cây am la, trái chín thì vị ngọt ngon người ta ưa thèm, còn nếu là trái sống thì vị đắng người chê bỏ. Trí huệ Như Lai từ đại bi sanh vì vậy mà tự điều chẳng do nơi người.

Vô Úy Bồ Tát nói với Bảo nữ rằng: Cô cũng có thể báo đáp ơn cho Bất Khả Thuyết Bồ Tát chẳng?

Bảo Nữ nói: Thưa Pháp Huynh! Nếu tôi biết ơn đâu được chẳng báo. Nếu có ai chẳng thể tu hành đạo bồ đề, người như vậy thì chẳng thể báo.

Vô Úy Bồ Tát hỏi: Này Bảo Nữ! Thế nào gọi là tu bồ đề đạo?

Bảo Nữ nói: Ba mươi hai nghiệp gọi là bồ đề đạo.

Những gì là ba mươi hai nghiệp?

Đó là: Trọn chẳng thối thất tâm bồ đề, chẳng ham tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, chí tâm tu hành không có siểm khúc, phàm chỗ tu hành không có chướng ngại, vì chúng sanh mà làm tâm không có nhàm hối, dầu hiện hành sanh tử mà lìa tâm tham sân, với các chúng sanh tâm luôn bình đẳng đều có thể hóa để điều phục họ, dùng tứ nhiếp pháp để nhiếp lấy họ, vì cho chúng sanh được vui mà tu từ tâm.

Vì cứu khổ chúng sanh mà tu đại bi, như thuyết mà hành, tinh tiến kiên cố, trọn chẳng khi dối tất cả chúng sanh, những trang nghiêm được tu vì trợ bồ đề chẳng cầu tất cả sự vui thế gian, tâm chẳng tham trước thế gian lợi dưỡng, chẳng vì tự thân mà gây tạo các sự ác, chẳng tham thọ mạng, chẳng thấy lỗi người, tâm mình điều phục.

Tịnh ba loại giới, trang nghiêm tu tập nghiệp tướng hảo, thường nhớ xuất gia báo đáp nghiệp lành đời trước, thường thích tịnh tĩnh, học nhiều không phàm, trí huệ hay lợi ích thân mình thân người, phàm có thuyết pháp không có ý tưởng ăn uống, hay xả bỏ tất cả chẳng cầu quả báo, tinh nơi giới tụ, chẳng sanh kiêu mạn, trọn chẳng tự khen công đức của mình, vì người mà siêng tu nhẫn nhục.

Vì tịnh Phật độ nên siêng hành tinh tiến, vì biết phương tiện nên cầu nhất thiết trí, dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, vì được thần thông để hộ trì chánh pháp, thân cận thiện hữu thiện tâm tư duy, xa lìa ma nghiệp như pháp mà trụ, được vô sanh diệt vi diệu trí huệ.

Nếu người chẳng thể hành những pháp như vậy, nên biết người ấy chẳng thể báo ơn, lại còn chẳng biết được ơn Như Lai.

Có hai hạng người quyết định chết chẳng trị chữa được rốt ráo chẳng thể biết ơn và báo ơn: Một là hàng Thanh Văn và hai là hàng Duyên Giác.

Này Pháp Huynh! Ví như có người sa vào hố sâu, người ấy chẳng thể tự lợi lợi tha. Hàng Thanh Văn và Duyên Giác cũng như vậy, sa vào hố giải thoát chẳng thể tự lợi và lợi tha. Lúc ấy Vô Úy Bồ Tát liền cởi thượng y cùa mình đang mặc để báo đáp ơn thuyết pháp của Bảo Nữ. Bảo Nữ chẳng chịu nhận y ấy.

Vô Úy Bồ Tát nói: Ta vì pháp vậy, mong nhận lấy đó.

Bảo Nữ nói: Thưa Pháp Huynh! Pháp lìa nơi tham, vì vậy nên chẳng nên thuyết pháp mà thọ nhận, pháp không có lấy vì vậy nên chẳng nên lấy vật cúng dường, pháp không có tham vì vậy nên chẳng nên tham vật cúng dường, pháp vô ngã và ngã sở vì vậy nên chẳng nên đem vật ngã sở để cúng dường, pháp thanh tịnh vì vậy nên chẳng nên đem vật bất tịnh để cúng dường.

Pháp không có thân tâm vì vậy nên thân tâm làm là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải tâm ý thức nên tâm ý thức chẳng phải cúng dường vậy, pháp không kéo níu nên có kéo níu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng hữu vô vì vậy nên pháp hữu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải các hữu và vậy nên tướng hữu là chẳng phải cúng dường vậy.

Pháp chẳng phải giác quán người có giác quán là chẳng phải cúng dườngvậy, pháp không tăng giảm người có tăng giảm là chẳng phải cúng dường vậy, pháp không cao hạ người có cao hạ là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng nói được chẳng nghe được không có văm tự, xả bỏ tất cả âm thanh lắng nghe, lìa xa thánh đạo vì vậy chẳng thể đem y cúng dường được.

Pháp không có cảnh giới chẳng phải nhãn cảnh giới nhẫn đến ý cảnh giới không có chỗ y trụ vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp tức là mười hai nhân duyên chẳng phải thường chẳng phải đoạn vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường.

Pháp không chướng ngại, chẳng điên chẳng đảo, chẳng thể lường đo, không có ngã nhân chúng sanh thọ mạng, bất sanh bất diệt bất xuất vô vi vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường.

Vô Úy Bồ Tát nói: Này Bảo Nữ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thọ pháp cúng dường như vậy.

Bảo Nữ nói: Đức Như Lai dầu thọ pháp cúng dường, như pháp giới tánh mà chẳng phân biệt.

Vô Úy Bồ Tát nói: Thế nào là phân biệt pháp giới?

Bảo Nữ nói: Nếu nói pháp khác, cúng dường khác, người thọ khác, người thí khác, đây thì gọi là phân biệt pháp giới. Nếu chẳng phân biệt pháp và cúng dường chẳng phân biệt người thọ người thí, đây thì gọi là bất phân biệt pháp giới.

Vô Úy Bồ Tát hỏi: Nếu pháp giới ấy không có phân biệt sao lại nói phân biệt pháp giới và bất phân biệt pháp giới?

Bảo Nữ nói: Tánh pháp giới ấy dầu không có phân biệt, mà vì các chúng sanh tâm họ điên đảo sanh ra phân biệt. Như có món đồ nên gọi là có bể hư, nếu có tạo tác có thủ trước thì gọi là phá hư gọi là phân biệt. Như món đồ hư hoại mà hư không trong món đồ trọn chẳng bị hư hoại. Tánh pháp giới cũng như vậy.

Đức Phật nói: Lành thay lành thay! Nếu người có thể thành tựu pháp ấy, người như vậy kham thọ sựcúng dường của nhân thiên trong Đại Thiên Thế Giới. Đức Phật nói lời ấy xong, đại chúng mỗi người đều riêng cởi y Uất Đa La Tăng dâng lên Bảo Nữ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Phàm có nói được ấy tức là pháp thế gian, còn chẳng nói được tức là xuất thế. Tuyên nói được ấy tức là ái tâm, chẳng nói được ấy tức là ly ái. Nói được ấy tức là thế gian hành, chẳng nói được ấy tức là xuất thế hành.

Bạch Đức Thế Tôn! Nghĩa xuất thế là không có tạo tác, không có tạo tác thì không tranh tụng. Không tranh tụng là pháp Sa Môn. Pháp Sa Môn là pháp xuất thế. Pháp xuất thế là không có tội lỗi. Không có tội lỗi là chẳng thủ chẳng sanh chẳng diệt.

Chẳng thủ chẳng sanh chẳng diệt là xuất thế. Pháp xuất chẳng tuyên nói được chẳng hiển thị được. Do nghĩa này nên tất cả các pháp chẳng tuyên nói được.

Lúc ấy trong đại chúng có một Thiên Tử tên Thắng Ý nói với Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng: Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp chẳng tuyên nói được, sao chúng sanh được có ngôn thuyết?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Này Thiên Tử! Chừng Ngài có biết âm hưởng có ngôn thuyết chẳng?

Thắng Ý nói: Thưa Đại Sĩ! Âm hưởng đều tùy theo nhân duyên mà có.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Nhân của Am hưởng ấy định ở trong hay định ở ngoài?

Thắng Ý nói: Thưa Đại Sĩ! Nhân của âm hưởng ấy chẳng định ở trong cũng chẳng định ở ngoài.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Này Thiên Tử! Vì chúng sanh cưỡng làm hai tướng nên có ngôn thuyết. Tánh của các pháp thiệt chẳng nói được.

Thắng Ý Thiên Tử hỏi: Nếu tất cả pháp chẳng nói được, sao Đức Như Lai nói tám vạn bốn ngàn pháp môn khiến hàng Thanh Văn thọ trì đọc tụng?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Như Lai Thế Tôn thiệt không có chỗ nói. Không có chỗ nói tức là Như Lai.

Này Thiên Tử! Ngài biết những gì là Như Lai chăng?

Ngài toan chẳng cho là sắc thọ tưởng hành thức là Như Lai chăng?

Ngài toan chẳng cho Phật là khứ lai hiện tại hữu vi vô vi ấm giới nhập là nhân là quả nhiếp thuộc tam là hòa hiệp chăng?

Ngài toan chẳng cho Phật là tưởng chẳng phải tưởng cũng tưởng cũng Phi Tưởng chẳng phải tưởng chẳng phải Phi Tưởng chăng?

Thắng Ý nói: Chẳng phải vậy, thưa Đại Sĩ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Nếu tất cả như vậy chẳng phải là Phật thì thế nào nói được. Nếu là chẳng nói được sao lại nói rằng Đức Như Lai Thế Tôn diễn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì thế nên tám vạn bốn ngàn pháp môn thiệt chẳng nói được.

Người Thanh Văn nghe thọ ấy cũng chẳng nói được. Chẳng nói được ấy là chánh nghĩa. Nghĩa nếu không có nói tức là chân thiệt. Nếu là nói được thì là bất định. Nếu chẳng nói được thì là chứng được, nếu nói được thì chẳng thể chứng, tại sao, vì điên đảo vậy.

Thắng Ý Thiên Tử bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát ai sẽ tin đó?

Lúc ấy Bất Khả Thuyết Bồ Tát liền dùng thần thông lực hóa ra một Tỳ Kheo nói rằng: Nay tôi thâm tín chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát.

Tại sao?

Vì tôi như Đức Như Lai, cũng như pháp giới. Như Lai các uẩn chẳng nói được, tôi các uẩn cũng chẳng nói được. Như Lai giới nhập chẳng nói được, tôi giới nhập cũng chẳng nói được. Như Lai bồ đề, tôi bồ đề cũng vậy bình đẳng không có sai biệt.

Như Lai biết rõ các chúng sanh giới, tôi cũng biết rõ các chúng sanh giới. Như Lai chuyển pháp luân vô thượng, tôi cũng chuyển pháp luân như vậy. Như Lai nhập vô thượng Niết Bàn, toi cũng nhập Niết Bàn như vậy.

Thắng Ý Thiên Tử hỏi: Này Tỳ Kheo! Phải chăng ông là ma tạo ra ư, mà tự nói rằng đồng với Như Lai?

Hóa Tỳ Kheo nói: Này Thiên Tử! Nếu có người nói rằng tôi khác Phật khác. Nên biết người ấy là đệ tử ma. Nếu người nói rằng lấy tôi bình đẳng nên quán pháp bình đẳng. Vì pháp bình đẳng nên chúng sanh bình đẳng. Vì chúng sanh bình đẳng nên Như Lai bình đẳng. Người như vậy là chân thiệt biết có thể vượt quá ma giới.

Lúc hóa Tỳ Kheo nói lời ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận giới thoát, tám ngàn Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn liền đem hoa hương cúng dường hóa Tỳ Kheo.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi: Chư Đại Sĩ! Cớ chi cúng dường hóa Tỳ Kheo ấy?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Chư Đại Sĩ! Các Ngài nay chẳng biết là Bất Khả Thuyết Bồ Tát hóa ra chẳng?

Chư Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Ví như Đức Phật lại hóa Như Lai. Có người cúng dường hóa Như Lai.

Như vậy là cúng dường ai?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Người ấy tức là cúng dường Như Lai.

Chư Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Người cúng dường hóa Tỳ Kheo này tức là cúng dường Bất Khả Thuyết Bồ Tát vậy.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi: Chư Đại Sĩ! Đại Bồ Tát Bất Khả Thuyết ấy sắm sửa cúng dường gì để tha hồ cúng dường?

Chư Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Nếu có người trí không âm thanh hành không tên, không sắc, không tâm, không làm, không chỗ tuyên nói, không tự không tha, không pháp không phi pháp, không tinh không uế, cúng dường như vậy mới tha hồ cúng dường.

Hóa Tỳ Kheo nói với Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: Này Đại Đức! Ý Ngài cho rằng nay tôi khác với Ngài chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Này Tỳ Kheo! Chẳng có khác, tại sao, Như Lai thường nói tất cả các pháp dường như ảo hóa. Như Lai như thuyết ta cũng như tín.

Hóa Tỳ Kheo nói: Nếu người có thể cúng dường Như Lai thì tức là cúng dường hóa, không có sai khác vậy.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi Bất Khả Thuyết Bồ Tát: Thưa Đại Sĩ! Ai nhập vào hóa Tỳ Kheo mà nói lời như vậy?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Như tượng trong gương.

Ai ở trong gương mà có hiện tượng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Không có ai ở trong gương cả, do vì nhân duyên tứ đại thanh tịnh mà có tượng hiện.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Hóa cũng như vậy. Do vì pháp tánh thanh tịnh nên có thể nói lời như vậy.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi: Nếu là như vậy, cớ sao tất cả chúng sanh chẳng thể tuyên nói như vậy?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Phía sau lưng gương chẳng rời lìa gương có chi tượng không hiện?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Do vì phía lưng gương tứ đại chẳng thanh tịnh vậy nên tượng không hiện.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Chúng sanh cũng vậy, vì chẳng thanh tịnh được pháp giới tánh nên chẳng tuyên nói được.

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Lời và nghĩa trước sau của Ngài chẳng tương ưng nhau.

Tại sao, vì trước đây Ngài nói tất cả pháp giới tánh tự thanh tịnh, nay sao Ngài lại nói pháp giới chẳng thanh tịnh?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Nếu chẳng như vậy, Tôn Giả sao lại nhân nơi A Thấp Tỳ Kheo mà được pháp nhãn tịnh?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Tôi chỉ nhân A Thấp Tỳ Kheo khai đạo trừ diệt khách phiền não nên gọi là pháp nhãn tịnh kỳ thiệt vô sở đắc. Như có người nói rằng tôi được hư không.

Nói như vậy không đúng nghĩa, tại sao, vì hư không tánh thường tự thanh tịnh, nếu đã là thường thanh tịnh thì làm sao khả đắc, do mây mù che phủ nên người chẳng thấy, trừ mây mù rồi thì gọi là thấy. Tánh pháp giới cũng như vậy, nên tôi thiệt ra không có được pháp nhãn.

Thưa Đại Sĩ! Nay sao Ngài lại nói những nghĩa chẳng tương ưng, đó là nói pháp giới tánh hoặc tịnh hoặc bất tịnh?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Lời của Ngài nói với lời tôi nói đều là cảnh giới Chư Phật Như Lai, chẳng phải chỗ thấy biết của chúng ta.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi: Thưa Đại Sĩ! Nếu cho rằng lời nói như vậy là cảnh giới Phật, chẳng phải chỗ biết của tôi, sao lại còn nói tánh pháp giới không có phân biệt. Nếu có phân biệt thì nên biết pháp giới có vô lượng.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Pháp Giới tánh nhất, thiệt chẳng phải vô lượng.

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Như pháp giới tánh ấy là nhất, sao lại nói rằng là Phật cảnh giới chẳng phải chỗ biết của tôi.

Như pháp giới tánh ấy là nhất, thì do cớ gì mà tất cả chúng sanh chẳng gọi là Như Lai?

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Ngài muốn phân biệt chúng sanh và Như Lai có tướng khác chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Như lời nói trước của Ngài, tôi chẳng muốn chúng sanh và Như Lai có tướng khác biệt.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Ý Ngài định cho rằng có vô sinh chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Có, đó là pháp giới vậy.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Ý Ngài lại cho rằng có tà chánh chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Chẳng có, khối tà chánh ất ức là điên đảo.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Ngài cho rằng có pháp chẳng sanh sanh chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Chẳng có. Nếu là bất sanh thì cứu cánh bất sanh.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Ý Ngài cho rằng pháp bất sanh có phân biệt chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Chẳng có. Thưa Đại Sĩ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: Thưa Tôn Giả! Như là chẳng có ấy, cớ sao lại nói tất cả chúng sanh chẳng phải Như Lai.

Nếu là như vậy thì ai là chúng sanh ai là Như Lai?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Tôi đã trước hiểu nghĩa như vậy, vì hiển thị trí huệ mà hỏi như vậy.

Thưa Đại Sĩ! Nếu ai chẳng hiểu ý của Ngài nói, các chúng sanh ấy sẽ đọa địa ngục, tại sao, vì sanh phỉ báng vậy.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: Thưa Tôn Giả! Pháp như vậy không người nào có thể phỉ báng, không người hay thọ nhận. Tại sao, nếu có phỉ báng nhận thọ, thì nên biết người ấy cũng sẽ được pháp như vậy.

Thưa Tôn Giả! Như đối với đại lực sĩ, những kẻ yếu kém chẳng thể sanh nghi. Pháp của tôi cũng vậy. Nếu người chẳng ở chỗ vô lượng Chư Phật trồng thiện căn thì trọn chẳng thể nghi được, chẳng thể thọ trì được.

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Thưa Đại Sĩ! Như tôi hiểu nghĩa lới nói của Ngài thì nếu có người hay tin thuận pháp ngũ như vậy hơn vô lượng kiếp hành đàn Ba la mật, thì Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tiến Ba la mật, thiên Ba la mật, thế gian huệ Ba la mật.

Đức Phật nói: Lành thay lành thay! Như lời Xá Lợi Phất nói, nếu ai tin hiểu những lời như vậy, thì nên biết người ấy đã ở nơi vô lượng A tăng kỳ kiếp tu hành Sáu Ba la mật như vậy.

Nếu người chẳng thể tin được lời nói ấy thì chẳng thể được Phật thọ ký thành vô thượng bồ đề. Nếu người có thể tin thì được Phật thọ ký vô thượng bồ đề.

Này Xá Lợi Phất! Ta nhớ thuở trước trong vô lượng kiếp tu lục Ba la mật, vì chẳng thể tin lới nói như vậy nên chẳng được thọ ký, chẳng thành vô thượng bồ đề. Về sau ta tin rồi liền được thọ ký thành vô thượng bồ đề.

Vì thế nên biết rằng nếu người có thể tin hiểu lời nói ấy liền được thọ ký thành vô thượng bồ đề.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Do phần gì mà được thọ ký thì nghĩa ấy chẳng đúng, tại sao, vì là diệt pháp vậy. Nếu là phần vị lai mà được thọ ký thì nghĩa ấy cũng chẳng đúng, tại sao, vì chưa sanh vậy.

Nếu là phần hiện tại mà được thọ ký thì cũng chẳng đúng, tại sao, vì chẳng nói được vậy. Nếu ba phần không có thọ ký ấy, sao lại nói rằng Bồ Tát thọ ký.

Đức Phật nói: Nếu Đại Bồ Tát tin bất khả thuyết, biết bất khả thuyết, nói bất khả thuyết, nơi bất khả thuyết chẳng sanh lòng kinh sợ, biết bất khả thuyết và sắc hai pháp ấy không có sai biệt, thọ tưởng hành thức, nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý, Phật Pháp Tăng Tam Bảo, sanh tử giải thoát, pháp giới bất khả thuyết.

Những hai pháp ấy cũng đều không có sai biệt, đây gọi là Bồ Tát được nhẫn nhục phần, vô sanh phần, vô xuất phần, vô thủ phần, vô phần, vô hữu phần, vô tác phần, được đầy đủ thành tực những phần như vậy, nơi tất cả pháp chẳng sanh hai tướng hai tâm hai ý hai phần hai duyên.

Nếu có Bồ Tát có thể quán như vậy thì gọi là bất khứ bất lai bất trụ. Vì bất trụ nên không sở tác, vì không sở tác nên không nguyện cầu, vì không nguyện cầu nên chẳng đoạn chẳng thường, nếu không đoạn thường tức là trung đạo, nếu trung đạo tức là mười hai nhân duyên, mười hai nhân duyên không tác không cầu. Do vì nghĩa như vậy nên gọi là thậm thâm.

Chẳng sanh mà sanh chẳng xuất mà xuất, do nghĩa này lại gọi là thậm thâm. Không có tác giả không có thọ giả, do nghĩa này lại gọi là thậm thâm.

Ví như ngọn lửa từ nhân duyên lành, không có tác giả không có thọ giả. Lửa ấy tắt rồi không có chỗ đi không có chỗ đến. Tất cả các pháp cũng như vậy, không có tác giả không có thọ giả.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần