Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Một - Kinh đại Thần Lực đà La Ni Thích Ca Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN MỘT
KINH ĐẠI THẦN LỰC
ĐÀ LA NI THÍCH CA PHẬT
ĐẢNH TAM MUỘI ĐÀ LA NI
TẬP HAI
Lại từ góc Đông Bắc: Trang nghiêm tất cả phan, hoa, chuông, dây đeo, gương, bình báu theo thứ tự trang sức, đến góc Đông Bắc thì nghiêm sức một vòng xong. Chỉ mở cửa Tây, ba cửa Đông, Nam, Bắc đều đóng lại.
Tiếp theo, trang nghiêm phương bên trên, từ góc Đông Bắc dùng một cái phan cột buộc, đến góc Tây Nam cột buộc. Bên trên cửa ở chánh Đông dùng một cái phan cột buộc, đến cửa Tây cột buộc. Góc Đông Nam kia lại cột buộc một cái phan, đến góc Tây Bắc cột buộc. Bên trên cửa ở chánh Nam lại cột buộc một cái phan, đến cửa Bắc cột buộc.
Tiếp theo, trang nghiêm phương bên trên xong, đều phân chia cái phan đeo cột buộc bốn cây trụ, lại từ góc Đông Bắc cột buộc đến góc Tây Bắc cột buộc.
Tiếp theo, lấy phân bò sạch mới, phân của con bò chẳng ăn cặn rượu, đậu là bậc nhất, chẳng được dùng thẳng phân bò tươi ấy, lấy cái bình sành mới với nước sạch, chẳng dùng nước dư thừa, rót vào trong cái chậu, đem phân hòa với nước, khấy đều loại bỏ căn, bỏ bột Đàn hương vào, tay phải cầm một cành liễu.
Tay trái cầm chày Kim Cương với tràng hạt, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng Phật Đảnh Tâm Chú, xong rồi khuấy nước, Chú vào một trăm lẻ tám biến, cầm vật khí chứa nước đã được Chú, đi vào Đạo Tràng, từ góc Đông Bắc vảy nước hương ấy, dùng bàn tay phải xoa chà mặt đất, tùy theo Mặt Trời chuyển xoa, tùy chà xoa tùy khô ráo, chợt khiến dừng nước.
Đất bên trong Đạo Trường chà xoa một lần xong, cho đến bốn bên ở ngoài Đạo Tràng đếu chà xoa đất khoảng một bước đi, bốn góc dựng câu nêu, kết dây thừng làm giới hạn.
Đây tức gọi là Đất kết giới của Phật Đảnh tam muội Đà La Ni.
Như một lần chà xoa, thứ hai thứ ba cũng chà xoa như vậy. Khi chà xoa đất thì chẳng được dùng nước hương dư thừa, một ngày lấy riêng phân bò sạch, dực theo lúc trước làm dùng.
Làm nước này, tức gọi là nước tám công đức của Phật Đảnh tam muội Đà La Ni đất của Đàn khô xong, lấy năm cái bình báu đều chứa được một thăng. Nếu không có bình báu thì lấy cái bình bằng sành sứ chưa dùng qua cũng được, bên trong chứa đầy nước sạch, đều an ngũ cốc, để hương bảy màu, lại an Hùng Hoàng lớn như trái táo.
Trong năm cái bình ấy đều cắm cành liễu, cành bách, cành trúc, cành hoa quả tạp đều kèm theo lá. Xong dùng lụa màu đều dài bốn xích 4/3m cột buộc trên quả tạp rồi đem năm cái bình này đều an bốn góc.
Lại đem chín chén đèn để trong Đạo Tràng, dùng Phật Đảnh Tâm Trung Tâm Chú chú vào một trăm lẻ tám biến. Trước tiên, đem đèn này vào trong Đạo Tràng, từ góc Đông Bắc an một chén đèn bên dưới cây sào, ngay cửa chính Đông an một chén đèn, bên dưới cây cột ở góc Đông Nam an một chén đèn, cửa Chính Nam an một chén đèn, dưới cây sào ở góc Tây Nam an một chén đèn.
Cửa Chính Tây: Phía Nam của cửa an một chén đèn, phía Bắc của cửa an một chén đèn. Bên dưới cây cột ở góc Tây Bắc an một chén đèn, cửa chánh Bắc an một chén đèn.
Y theo lúc trước làm pháp. Đem bình hoa ấy, từ góc Đông Bắc an một cái bình, góc Đông Nam an một cái bình, góc Tây Nam an một cái bình, góc Tây Bắc an một cái bình, ngay trung tâm an một cái bình.
Lấy Tô Hợp Hương, Long Não Hương, Xạ Hương, Uất Kim Hương, Trầm Thủy Hương, Chiên Đàn Hương, An Tức Hương, Huân Lục Hương, Bạch Giao Hương… trừ Tô Hợp Hương, đem hương tám màu còn lại hòa với chút ít ngũ cốc đều an trong cái bình.
Ngũ Cốc là Đại Mạch, Tiểu Mạch, Đậu, lúa gạo, mè. Lấy mọi loại hoa xếp chồng lên nhau, mọi loại hương xếp chồng lên nhau an trí bên trong cửa Tây. Lấy hạt cải trắng, mười hạt Thạch Tử lớn như hạt Kê, nước rưới vảy sạch cùng với hạt cải để chung một chỗ.
Trước tiên, thiêu đốt An Tức Hương, Huân Lục Hương.
Lúc chưa đốt hương, trước tiên tụng Tâm Trung Tâm Chú mỗi mỗi ấn vào lư hương, Chú bảy biến xong, tay cầm lư hương rồi nói lời này: Con.
Họ tên… cúng dường mười phương tất cả Phật, tất cả Bát Nhã Ba La Mật, tất cả Quán Thế Âm Bồ Tát, tất cả các Bồ Tát, tất cả Kim Cang Tạng Bồ Tát, tám Bộ Trời Rồng, các hàng Thiện Thần hộ tháp, hộ pháp… chứng cho con, Tỳ Kheo. Tên là… làm công đức của Phật Đảnh tam muội Đà La Ni, như ý thành tựu, thỉnh cầu gia hộ.
Nói lời này xong, liền phụng thỉnh tượng Thích Ca Phật Đảnh treo ngay trung tâm của Đạo Tràng.
Liền đốt tám loại hương cúng dường, đảnh lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi lui ra, ngồi xuống, chắp tay, ngay thẳng thân an trụ, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, dùng Kệ khen ngợi là: Nam mộ Phật Trí Tuệ tinh tiến Sức Na La Diên.
Nārayaṇa, thân Cốt Tỏa Śaṃkara: Hóa Thân của Đại Tự Tại Thiên.
Ba La Mật Đa. Pāramitā, Hạnh sáu Độ Ṣaḍ pāramitā Cha đại từ bi thường vì người.
Nói ba lần Kệ khen ngợi như vậy xong, đảnh lễ, nâng bàn chân cung kính. Liền lầy mọi loại bột hương cúng dường, nâng hương trong bàn tay, tụng Tâm Chú chú vào bảy biến, rải tán bên trên Đức Phật Tích Ca Mâu Ni với mười phương tất cả Phật, bát nhã Bồ Tát…đồng cúng dường khắp. Đây gọi là Hương tam muội Đà La Ni Cúng Dường.
Lại làm Hoa Ấn, nâng mọi loại hoa như pháp hương lúc trước, Chú bảy biến xong, như lúc trước rải tán cúng dường.
Đây tức gọi là Đà La Ni tam muội Hoa Cúng Dường Tiếp theo, tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải cầm xâu chuỗi, miệng nói rằng: Đảnh đầu đội, cung kính hằng sa vạn Đức của pháp bát nhã Ba La Mật Đa. Nay theo Chư Phật thọ nhận.
Nói lời này xong, liền nâng hai bàn tay đỗi trên đảnh đầu cung kính. Đây gọi là pháp Đảnh Đái Cung Kính.
Lại để xâu chuỗi với chày Kim Cang ở trên vật khí báu, đảnh lễ Đức Thế Tôn, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng thỉnh xin Đức Phật rồi đi ra. Lại dùng nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ xong, mặc áo sạch mới, đầy đủ ba áo, từ giờ Ngọ đến hoàng hôn mặc một áo, từ hoàng hôn đến nửa đêm mặc một áo, từ nửa đêm đến bình minh mặc một áo.
Như vậy thay đổi, kết thúc rồi lại bắt đầu. Nếu không có ba áo thì dùng hai áo cũng được. Trên dưới cái áo ấy đều dùng màu vàng, chẳng thích hợp dùng tạp sắc. Đủ màu sắc lẫn lộn. Mặc áo sạch xong, liền dùng Phá Ma Ấn Chú hộ thân.
Phật Đảnh Phá Ma kết giới Hàng Phục Ấn Chú thứ hai.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa, dựng thẳng hai ngón trỏ cùng vịn đầu nhau, đem hai ngón giữa đều đặt vượt qua cạnh lưng lóng trên của ngón trỏ, trụ đầu nhau. Kèm co hai ngón cái vào bên trong lòng bàn tay. Trước tiên đội trên đảnh đầu cung kính Ấn xong, chí Tâm tụng Chú.
Chú là:
Úm thất lị dạ bà hề sa bà ha.
Đội trên đỉnh đầu cung kính, Chú bảy biến xong, ấn vai trái, vai phải, ngay trái tim, dưới cổ họng, tam tinh, chân tóc với ấn sau đảnh đầu… như vậy ba lần.
Ấn với Chú này thường dùng để Hộ Thân, kết giới. Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới thành đạo thời ngồi dưới cây Bồ Đề, trước tiên dùng Ấn này tụng Đà La Ni hộ thân, kết giới, hàng phục các Ma, thành Đẳng Chính Giác. Đà La Ni Ấn này hay giải tất cả mọi loại trùng độc, mọi loại quỷ ác, mọi loại tinh mỵ, mọi loại các Chú Thuật của các ma, quỷ thần thảy đều tiêu diệt chẳng thể gây hại.
Nếu Thiện Nam Tử đối với Xa Ma Tha Śamatha: Thiền Chỉ, Tỳ Bát Xá Na.
Vipaśyana: Thiền Quán mau được thành tựu thiền định giải thoát. Khi tác Quán Hạnh thời trước tiên ấn lên sàng tọa. Chỗ ngồi trên giường… Chú hai mươi mốt biến với thân tâm xong rồi ngồi kiết già trên giường nới lỏng dây cột buộc quần áo, thẳng thân ngồi ngay ngắn, lóng xương cùng trụ với nhau, cổ ngay thẳng, nhìn ngang, nâng lưỡi lên vòm miệng, đem tay phải đè tay trái tác bát nhã tam muội Thiền Ấn.
Trước tiên, quán bốn Đại.
Đất, nước, gió, lửa, hình sắc rốt ráo trống rỗng Śūnya: Không không có chân thật. Tiếp theo quán năm Uẩn biết Tính của nó trống rỗng, chẳng thể đắc được tức tâm tịch diệt tam muội. Quán tính của hình thể vật chất.
Rūpa: Sắc chẳng thể đắc được tức Sắc tịch diệt tam muội. Nếu chứng tam muội. Samādhi này thời tâm sinh đại hoan hỷ. Hoặc thấy các cảnh giới thì chẳng được lấy giữ, dính mắc… diệt trừ tất cả các tội chướng nặng. Hoặc thấy chướng khác thì tác Ấn tụng Đà La Ni liền được trừ diệt tất cả tội chướng.
Hộ thân, kết giới xong, đi vào trong Đạo Tràng, ở cửa Tây lễ bái, quỳ gối. Liền ấn lên lư hương, tụng Chú bảy biến.
Đốt An Tất Hương, Huân Lục Hương xong, miệng nói rằng: Con. Tên là… phụng thỉnh, làm pháp, thành tựu như ý tay phải bấm tràng hạt, tay trái cầm chày Kim Cang ấn trên hạt cải trắng, vật khí báu, tủng Đại Tâm Chú lúc trước, chú một trăm lẻ tám biến. Quay lại phóng tràng hạt với chày Kim Cang trên vật khí báu thơm, tác Phá Ma Ấn ấn lên hạt cải trắng, Thạch Tử. Ngọc trong đá đều chú bảy biến.
Tiếp theo, tác Phật Đảnh Sách Ấn ấn lên hạt cải trắng, Thạch Tử đều chú bảy biến tiếp theo, tác Phật Kim Luân Ấn Chú, tiếp đến tác Phật Đao Ấn Chú đều chú bảy biến.
Liền dùng tay cầm hạt cải, vật khí báu từ góc Đông Bắc bên trong Đạo Trường rải hạt cải trắng, như vậy bốn phương, bốn góc, phương trên, phương dưới rải một lần xong. Thứ hai, thứ ba cũng rải tán như vậy.
Rải tán xong liền đi ra bên ngoài Đạo Trường, dựa theo lúc trước rải hạt cải trắng ở bốn phương, bốn góc, phương trên, phương dưới. Rải xong cầm Thạch Tử ấy từ góc Đông Bắc dùng hết sức ném hòn đá. Thạch tử, như vậy bốn phương, bốn góc, phương trên, phương dưới đều ném một hòn đá. Nơi hòn đá đi đến tức là giới hạn bên ngoài. Ngoại giới, nơi hạt cải đi đến tức là giới hạn bên trong.
Nội giới quay lại vào Đạo Trường tác Phá Ma Ấn ấn mặt đất, tụng Chú bảy biến tức gọi là Địa kết giới. Bốn góc, bốn phương dùng Thủ Ấn chuyển trong hư không, Chú bảy biến, tức là Kết Bát Phương Giới. Dùng Thủ Ấn trên đảnh đầu, cao một Xích 1/3m chuyển, Chú bảy biến tức gọi là Thượng kết giới pháp. Tiếp theo, dùng Thủ Ấn kết giới chung xong.
Tay bưng lò hương, đốt mọi thứ hương, miệng nói rằng: Phụng thỉnh kết giới đều y theo Bản Vị. Vị trí của mình, đầy đũ oai nghi như pháp mà trụ.
Phật Đảnh Phụng Thỉnh Ấn thứ ba: Dựa theo thân ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ dựng thẳng, cách nhau bốn Thốn rưỡi 3/2 dm, kèm hai ngón cái dựng thẳng cách ngón giữa tám phân 4/15dm, tụng Phật Đảnh Tâm Chú đến biến thứ tư, hai ngón trỏ dần dần co vào lòng bàn tay, Chú đủ bảy biến. Trở ngược Thủ Ấn liền hòa nam.
Vandana: Con lễ, quy lễ, kính lễ, cung kính, độ cho con, cúi đầu đảnh lễ hướng vào bên trong bung tán Phụng Thỉnh Ấn. Liền tác Hoa Quang Ấn tụng Chú.
Chú là:
Úm, hồng, ca ma la, sa bà ha.
Chú bảy biến. Liên Hoa Phủng Túc Ấn Chú thứ bốn. Cũng gọi là Hoa Quang Ấn vậy: Dựng hai ngón út cùng vịn nhau, kèm dựng hai ngón cái.
Sáu ngón tay còn lại bung mở dựng thẳng, hơi co lóng ngón tay giống như thế nở hoa, Chú đủ bảy biến, kèm co hai ngón cái hướng vào bên trong lòng bàn tay, liền đảnh lễ, hướng vào bên trong bung tán Liên Hoa Ấn Tòa Chú ấy là:
Úm ca ma la sa ha. Chú bảy biến.
Tòa Ấn thứ năm:
Tay phải: Dựng thẳng năm ngón tay cùng vịn ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh của tay trái, co năm ngón tay phải đem ngón cái đè lên trên, duỗi thẳng ngón út trái. Tụng Tòa Chú lúc trước đủ bảy biến xong thì bung tán Tòa Ấn.
Tiếp theo, thỉnh Đức Phật Thích Ca ngồi ở chính giữa. Tiếp theo thỉnh Đông Môn Thích Ca Tâm Phật, dùng Phật Đảnh Ấn, tụng Phật Đảnh pháp. Thỉnh Tòa pháp dùng dựa theo lúc trước.
Phụng thỉnh Thị Giả. Ante vāsi ở cửa Nam là Kim Cang Tạng Bồ Tát. Vajragarbha.
Kim Cang Tạng Bồ Tát Ấn Chú thứ sáu.
Hai tay đem ngón vô danh cài chéo nhau bên trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, hướng về Hổ Khẩu. Duỗi thẳng đứng hai ngón út cùng vịn nhau. Dựng đứng hai ngón giữa cùng vịn nhau, dựng đứng hai ngón trỏ cách nhau bốn thốn rưỡi 3/2dm, tụng Kim Cang Tạng Tâm Chú.
Chú là:
Úm bạt chiết la tất bà bà bá da sa bà ha. Tụng bảy biến, dần dần co ngón trỏ hướng vào bên trong lòng bàn tay, tiếp đến đảnh lễ.
Tòa pháp ấy dùng dựa theo Thỉnh Tòa pháp lúc trước, không có khác.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ đà La Ni - Phẩm Hai - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Tám - Phẩm Ananda - Phần Chín - Hương
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Tám - Bản Hạnh
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Ba - Kinh Con Trâu đá
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu- Phẩm Bảy Mươi Sáu - Phẩm Pháp Tánh Vô động