Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI MỐT

PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT  

PHẦN BỐN  

Bấy giờ Đức Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi liền đi qua thành Ba La Nại trong rừng Lộc Dã chỗ ở của các tiên nhân mà chuyển chánh pháp luân.

Pháp luân ấy, tất cả hàng Chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương và các Sa Môn hoặc các Bà La Môn khác đều chẳng thể chuyển được.

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói pháp Tứ đế, Tỳ Kheo Kiều Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Tiếng pháp ấy vang khắp cả Cõi Đại Thiên.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nghĩa pháp thậm thâm chẳng thể nói

Đệ nhất nghĩa không tiếng không chữ

Tỳ kheo Trần Như nói các pháp

Chứng được bậc tri kiến chân thật

Chính ta thuở xưa vô lượng đời

Chứng được bồ đề nay đã được.

Lúc Đức Như Lai chuyển chánh pháp luân như vậy, vô lượng chúng sanh đều được điều phục. Đức Như Lai thị hiện đại bi thần thông như vậy các chúng sanh được thấy có vô số người phát tâm vô thượng bồ đề.

Này thiện nam tử! Mười sáu đại bi của Như Lai như vậy, tất cả đều vì các chúng sanh mà tu tập. Do nhân duyên đại bi ấy, Đức Như Lai vì mỗi mỗi chúng sanh trải qua số kiếp như số cát Sông Hằng ở trong đại địa ngục thọ những khổ não mà tâm không thối chuyển, tâm đại bi ấy cũng không bị tổn giảm. Vì nghĩa ấy nên đại bi của Đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Lòng bi của hàng Thanh Văn và Duyên Giác như vẽ trên da, đại bi của Bồ Tát như xẻ thịt, đại bi của Như Lai như chẻ xương thấu tủy.

Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác tán thán sở tri của Phật, đại bi của Bồ Tát khuyên người thật hành, đại bi của Như Lai thọ ký vô thượng bồ đề.

Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác làm nhân duyên cho lòng từ, đại bi của Bồ Tát vì điều phục chúng sanh, đại bi của Như Lai vì cứu cánh độ chúng sanh.

Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác do sự khổ thô thiển mà sanh, đại bi của Bồ Tát do lìa rời sự khổ mà sanh, đại bi của Như Lai do dứt trừ tất cả nhân duyên mà sanh.

Này thiện nam tử! Đức Như Lai tu tập đại bi như vậy, nếu vì một người mà ở lại thế gian mà trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đến vô lượng kiếp trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Đại bi của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Này thiện nam tử! Về quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thế gian có Đức Phật xuất thế hiệu là Chiên Đàn Quật, Thế Giới ấy tên là Đại Hương, kiếp ấy gọi là Thượng Hương.

Đức Phật Chiên Đàn Quật trong ba trăm ba mươi hai vạn kiếp thường đem chánh pháp giáo hóa hàng Thanh Văn. Trên thân Phật Chiên Đàn Quật mỗi mỗi lỗ lông phát ra hơi hương khắp đầy cả Đại Thiên Thế Giới.

Thế Giới Đại Hương ấy không có danh từ hôi thúi, bao nhiêu cỏ cây đều có mùi Chiên Đàn, thân các chúng sanh trong cõi ấy cũng có mùi hương Chiên Đàn như vậy, tất cả đều không có thân khẩu ý ác. Đệ tử của Đức Phật Chiên Đàn Quật nghe mùi hương này thì được Tứ Thiền.

Sau đó kế tiếp có một vạn Chư Phật nối nhau xuất thế đều đồng một hiệu là Chiên Đàn Quật, do cớ này mà kiếp ấy có tên là Thượng Hương.

Đức Chiên Đàn Quật Như Lai làm Phật Sự xong muốn nhập Niết Bàn quan sát chúng sanh coi có ai chưa điều phục thì Phật sẽ điều phục cho.

Đức Phật Chiên Đàn Quật dùng tịnh nhãn thấy có một vị ở Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đã ở nơi Phật trước gieo giống thượng thiện căn quyết định sẽ nhân pháp Phật mà được độ thoát chớ chẳng phải nhân pháp Thanh Văn mà được giải thoát.

Vị trời này quá tám vạn bốn ngàn kiếp tuổi thọ sẽ sanh xuống Cõi Dục sẽ nghe Kinh Điển Đại Thừa mà phát tâm vô thượng bồ đề an trụ bậc bất thối chuyển.

Đức Phật Chiên Đàn Quật do sức đại bi khởi đại phương tiệnbảo các Tỳ Kheo giờ Niết bàn của ta đã đến, nói xong Phật liền nhập Bất Thối tam muội thị hiện cho chúng sanh biết Phật nhập Niết Bàn, biết Phật nhập Niết Bàn rồi đại chúng sắp bày rộng rãi sự cúng dường.

Chánh Pháp trụ thế đủ sáu mươi tám vạn bốn ngàn năm, trong thời gian các đệ tử của Phật không có đến một người ở nơi chánh pháp mà sanh tưởng tà pháp.

Do sức đại định, Đức Phật Chiên Đàn Quật ẩn kín thân Phật qua tám vạn bốn ngàn kiếp chẳng cho đại chúng thấy. Quá kiếp số thọ mạng, vị trời ấy sanh xuống nhân gian làm con trai nhà đại Trưởng giả.

Qua tám mươi năm, Đức Phật Chiên Đàn Quật từ tam muội dậy đến nhà Trưởng giả, mọi người trong nhà không ai thấy, chỉ có người con trai này một mình được thấy Đức Phật và được nghe Đức Phật thuyết pháp được chẳng thối chuyển tâm vô thượng bồ đề.

Biết vậy, Đức Phật Chiên Đàn Quật liền thọ ký rằng đời sau quá bảy vạn hai ngàn A tăng kỳ trăm ngàn kiếp ngươi sẽ được thành vô thượng bồ đề hiệu là Bảo Thượng Phật.

Lời Đức Phật Chiên Đàn Quật thọ ký ngoài người con trai trưởng giả này không ai được nghe, chỉ có một vạn hai ngàn Chư Thiên này nghe rồi đều phát tâm vô thượng bồ đề đồng thanh bạch rằng: Cầu nguyện lúc đức Bảo Thượng Phật ra đời, chúng tôi sẽ ở trong Pháp Hội ấy thỉnh thọ chánh pháp và làm đệ tử.

Đức Phật Chiên Đàn Quật nghe biết lời bạch của Chư Thiên liền thọ ký rằng: Lúc Bảo Thượng Như Lai thành Phật, một vạn hai ngàn Chư Thiên các ngươi sẽ làm thọ pháp đệ tử, cũng sẽ được Phật Bảo Thượng thọ ký vô thượng bồ đề.

Việc làm này xong Đức Chiên Đàn Quật mới cứu cánh nhập Niết bàn tất cả Chư Thiên thiết lập cúng dường lớn.

Đức Phật phán tiếp: Này thiện nam tử! Chư Phật Như Lai có đủ đức đại bi như vậy, chẳng phải là chỗ biết được của hàng Thanh Văn và Duyên Giác. Thuở ấy, Đức Phật Chiên Đàn Quật dầu ở tại thế đem pháp Thanh Văn giáo hóa mà cuối cùng vẫn làm cho giống Phật chẳng dứt. Nếu có chúng sanh nào cúng dường ngôi Tam Bảo thì cũng như vậy.

Lúc Đức Phật Thế Tôn nói rộng công đức đại bi, trong chúng hội có ba hằng hà sa chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.

Nửa số chúng hội được thành vô sanh pháp nhẫn, phân nửa trong nửa số còn lại được có mười sáu đại bi như vậy, phần còn lại được Phật pháp nhẫn.

Tất cả Chư Thiên và mọi người nghe pháp vui mừng đồng thanh khen rằng: Lành thay, lành thay! Rất lạ lùng rất đặc biệt, Đức Phật Thế Tôn tuyên nói pháp môn đại bi như vậy.

Lại nữa, này Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát! Đức Phật Như Lai còn có ba mươi hai nghiệp.

Này thiện nam tử! Như Lai biết rõ thị xứ và phi xứ.

Thế nào là thị xứ và thế nào là phi xứ?

Này thiện nam tử!

Nếu có người tạo tác thân khẩu ý ác mà được thọ quả an lạc thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có người tạo tác thân khẩu ý thiện mà thọ quả an lạc thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Nếu có người quen làm việc tham lam bỏn xẻn mà được báo giàu to thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có người ban ơn bố thí mà được báo giàu to thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Nếu là người hủy phạm giới cấm mà được báo thân Cõi Trời thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu là người hộ trì giới cấm thanh tịnh mà được báo thân cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người hay sân hận mà được báo thân xinh đẹp thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người thường nhẫn nhục mà được báo thân xinh đẹp thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người lười nhác trong pháp lành lớn mà được đại thần thông thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người siêng tinh tiến nơi pháp lành lớn mà được đại thần thông thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người phóng tâm tán loạn mà được bậc chánh định thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người nhiếp tâm bất loạn mà được bậc chánh định thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người ngu si mà dứt tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người tu hành trí huệ dứt tập khí phiền não thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người tạo tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người không tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Thân người nữ mà làm Chuyển Luân Thánh Vương thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Thân Nam Tử làm Chuyển Luân Thánh Vương thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Như làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Thiên Đế Thích, làm Phạm Vương và làm Phật cũng như vậy.

Nếu là chuyển Luân Thánh Vương mà dùng phi pháp để trị nước thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Chuyển Luân Thánh Vương dùng chánh pháp trị nước thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người Châu Uất Đơn Việt sau khi chết mà đọa vào ba ác đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người Uất Đơn Việt thọ chung sanh lên Cõi Trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người thường sát hại sanh mạng chúng sanh mà được báo trường thọ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Còn do cớ này mà thọ mạng yểu ngắn thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người có tà kiến mà chứng Thánh Đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người có chánh kiến mà chứng được Thánh Đạo thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Bậc Tu Đà Hoàn mà còn có thọ sanh đời thứ tám thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Bậc Tu Đà Hoàn mà liền nhập Niết Bàn cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bậc A Na Hàm mà thọ sanh trong Cõi Dục thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bậc A La Hán mà thọ thân đời sau thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người Hiền Thánh mà học hỏi nơi các dị sư thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bậc bất thối nhẫn mà còn thối chuyển bồ đề thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bồ Tát đến ngồi dưới cây Bồ Đề chưa chứng quả bồ đề mà dậy đi thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bậc Phật Như Lai mà có tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bậc Phật Như Lai mà trí còn có chướng ngại thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của Đức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có chúng sanh biết được cảnh giới nội tâm của Đức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Tâm của Đức Phật mà chẳng thường định cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Chư Phật Thế Tôn mà có nhị ngữ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Như Lai Thế Tôn mà còn có lỗi lầm thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Này thiện nam tử! Đây gọi là nghiệp thứ nhất của Phật Thế Tôn.

Đức Phật nói kệ rằng:

Đại Địa được nói tướng chuyển động

Gió mạnh được nói tướng dừng lặng

Hư không được nói tướng có sắc

Phật chẳng nói xứ là phi xứ

Phật diễn nói xứ và phi xứ

Phần hạ trung thượng đều chân thật

Chẳng nói xứ phi xứ là một

Hai xứ như vậy riêng không hai

Như Lai cũng nói hạ trung thượng

Đều riêng không có ba thứ tướng

Phật biết thị xứ phi xứ rồi

Có thể tuyên nói pháp vô thượng

Như Lai biết rõ lòng chúng sanh

Khéo hay phân biệt tướng vi tế

Sa Môn phạm chí đi trong tối

Chẳng biết nhân thị xứ phi xứ

Chúng sanh chằng biết xứ phi xứ

Do đó nên chẳng được giải thoát

Như Lai biết rõ xứ phi xứ

Đó là hiệu Phật Đấng vô thượng

Nếu là chúng sanh không pháp khí

Như Lai với họ tu tâm xả

Lập đại phương tiện chờ thời tiết

Vì cho họ được chân giải thoát

Như Lai Thế Tôn trí vô thượng

Đây thì gọi là pháp thứ nhất

Thanh Tịnh Nghiệp thứ nhất như vậy

Vì làm chúng sanh được điều phục

Như Lai nói lực thứ nhất này

Rất sâu khó lường không biết được

Diệu pháp như vậy khó biết được

Vì phá tà kiến thương xót nói.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai khéo biết những nghiệp được có của các chúng sanh hiện tại và các chúng sanh vị lai, biết rõ nghiệp, biết rõ báo, biết rõ nhân, biết rõ xứ.

Nếu nghiệp quá khứ là nhân bất thiện thì Đức Như Lai biết rõ là đời vị lai được quả bất thiện.

Nếu nghiệp vị lai có nhân duyên thối chuyển thì Như Lai biết rõ là nhân thối chuyển.

Nếu nghiệp vị lai hay làm tăng trưởng pháp thì Đức Như Lai biết rõ do nhân duyên này hay làm tăng trưởng pháp.

Nếu nghiệp hiện tại hoặc tiến hoặc thối thì Đức Như Lai biết rõ do nhân duyên này nên có tiến có thối.

Nếu có nghiệp được làm là nhân Thanh Văn là nhân Duyên Giác, là nhân Bồ Tát, là nhân Như Lai, thì Đức Như Lai đều biết rõ do nhân duyên này mà thành là nhân Thanh Văn, là nhân Duyên Giác, là nhân Bồ Tát, là nhân Như Lai. Đây gọi là nghiệp thứ hai của Đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai chứng được trí vô thượng

Nên biết rõ được nghiệp nhân quả

Biết nhiếp tam thế chẳng Tam Thế

Biết được tam thế nghiệp chúng sanh

Khéo biết chúng sanh nhân an lạc

Phật cũng biết rõ nhân khổ não

Phật phá tà kiến không nhân quả

Do đây tu tập nghiệp thứ hai

Thông đạt nhân hai pháp tiến thối

Nghiệp quả thiện ác cũng như vậy

Như Lai tri kiến không chướng ngại

Như xem trái cây trong bàn tay

Biết tướng chân thật thượng trung hạ

Sở nhân ba thừa cũng như vậy

Như Lai biết rõ nghiệp chúng sanh

Cũng biết các nghiệp quả thiện ác

Chúng sanh nghiệp quả thuộc tam thế

Biết rõ chẳng sai gọi Chánh Giác.

Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn biết rõ các loại dục giải của chúng sanh: Hoặc là tham dục, hoặc là sân hận, hoặc là ngu si, đời hiện tại tham dục khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại sân hận khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại ngu si khởi đời vị lai tham dục sân hận ngu si.

Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh hiện tại trụ ở thiện dục vị lai ác dục, hiện tại trụ ác dục vị lai thiện dục.

Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh đời hiện tại trụ hạ dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ trung dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ thượng dục đời vị lai hạ trung thượng phần.

Đức Như Lai biết rõ chúng sanh tà tụ có thể làm chánh tụ, chúng sanh bất định tụ an trụ ở chánh định tụ.

Đức Như Lai biết rõ chúng sanh Cõi Dục có dục giải Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc.

Đức Như Lai biết rõ người Thanh Văn có dục giải Duyên Giác có dục giải Phật. Vì Đức Như Lai chân thật thông đạt biết rõ nên vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ ba của Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Dục giải của chúng sanh có nhiều loại

Ý đó có nhiều chẳng phải một

Phật chân thật biết rõ các dục

Nên hay tùy ý diễn nói pháp

Tánh tham dục sân hận ngu si

Theo tướng biết rõ không sai lầm

Hạ trung thượng phẩm cũng biết rõ

Thiện ác nghiệp nhân quả chân thật

Thông đạt ba tụ chẳng nhất định

Tất cả ba thừa cũng bất định

Biết tam thế chẳng nhiếp Tam Thế

Lực thứ ba vì chúng sanh nói.

Lại này thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ vô lượng Thế Giới, hoặc tu thiện hạnh, hoặc hành ác pháp, hoặc hành vô ngại hạnh, thế nào gọi là biết, vì là nội không ngoại không và nội ngoại không vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ nhãn, biết rõ sắc và biết rõ nhãn thức, thế nào mà biết, vì là như hư không vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thế nào mà biết, vì như giác quán vậy.

Lại nữa Đức Như Lai biết rõ nơi hành giới, thế nào mà biết, vì như tánh của hành vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ phiền não giới, thế nào mà biết, vì là tánh khách trần vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ giới chẳng nhiễm ô, thế nào mà biết, vì tánh của các pháp bổn thanh tịnh vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ giới sanh tử, thế nào mà biết, vì vô minh nhân duyên vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ giới Niết Bàn, thế nào mà biết, vì là chân thật tư duy vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ các giới: Thế trụ, thế ái, thế sân, thế si, thế thanh tịnh, thế thanh tịnh tâm.

Vì biết rõ các giới nên có thể như thiệt thuyết pháp, đây gọi là nghiệp thứ tư của Đức Như Lai.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Phật là sư tử Vương trong đời

Hay chân thật biết chúng sanh giới

Như Lai trí huệ không bờ mé

Nên biết thế gian không bờ mé

Biết hạnh thiện ác hạnh giải thoát

Cũng biết nhãn sắc và nhãn thức

Thông đạt tất cả vô lượng pháp

Tánh nó bổn lai thường thanh tịnh

Nội ngoại chân thật vô sở hữu

Ngũ ấm lục nhập thập bát giới

Thân khẩu ý nghiệp và tứ đại

Các pháp như vậy đều không thiệt

Biết rõ chúng sanh giới như vậy

Tất cả đều đồng cảnh hư không

Tam giới tánh tướng không chân thật

Các phiền não giới cũng không chân

Phiền não tánh tướng không bền vững

Vô lậu giải thoát cũng như vậy

Như Lai dầu biết chân thật giới

Trọn chẳng vì biết mà kiêu mạn

Hư Không vô lượng vô biên tế

Tất cả chúng sanh giới cũng vậy

Như Lai trí huệ vô biên tế

Xa lìa ba tướng của hữu vi

Trí Phật vô thượng rất sâu diệu

Tất cả chúng sanh chẳng biết được

Như Lai vì thương xót chúng sanh

Tuyên nói lực thứ tư như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ tất cả chúng sanh các căn lợi độn.

Thế nào mà biết?

Như Lai biết rõ là thượng trung hay hạ, biết là tăng, biết là giảm, cũng biết tham dục có một ức thứ, sân hận và ngu si cũng đều có một ức thứ, biết là tham dục nặng, biết là tham dục nhẹ, biết là ngu si nặng, biết là ngu si nhẹ, biết một loại căn hay tăng thêm sanh tử biết một loại căn hay giảm bớt sanh tử.

Biết thiện căn biết căn bất thiện biết căn chẳng thiện chẳng bất thiện, biết căn giải thoát biết căn sáu tình thức, biết căn nam, căn nữ, căn mạng, căn khổ, căn lạc, căn ưu, căn hỉ, căn xả, căn tín, căn tiến, căn niệm, căn định, căn huệ, căn vị tri dục tri, căn tri, căn dĩ tri.

Biết rõ nhân nhãn căn, nhân nhĩ căn, nhân tỷ căn, nhân thiệt căn, nhân thân căn, nhân ý căn. Biết rõ nhân nhĩ căn làm duyên nhãn căn, nhân tỷ căn làm duyên thiệt căn, nhân ý căn làm duyên thân căn, biết rõ giới trang nghiêm thì có thể tu hạnh bố thí, biết rõ thí trang nghiêm thì có thể tu giới trang nghiêm.

Đức Như Lai biết rõ ai có thể nói được thí, ai có thể nói được giới, ai có thể nói được nhẫn, ai có thể nói được tinh tiến, ai có thể nói được thiền, ai có thể nói được huệ, ai có thể nói được tứ niệm xứ, ai có thể nói được tứ chánh cần, ai có thể nói được tứ thần túc.

Ai có thể nói được ngũ căn, ai có thể nói được ngũ lực, ai có thể nói được thất giác chi, ai có thể nói được bát chánh đạo phần, ai có thể vì chúng sanh nói Thanh Văn thừa, ai có thể vì chúng sanh nói Duyên Giác thừa, ai có thể vì chúng sanh nói vô thượng Phật thừa.

Đức Như Lai biết rõ căn Duyên Giác học Thanh Văn thừa, căn Chánh Giác học Thanh Văn thừa học Bích Chi Phật thừa, biết người hạ căn có thể tu thượng căn, biết người thượng căn tu hạ căn.

Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh mà căn chưa có thể điều phục được thì sanh xả tâm, biết chúng sanh tâm có thể điều phục được thì vì hạng này mà nói chánh pháp.

Đức Như Lai biết rõ căn thục mà chẳng thục, căn chẳng thục mà thục, căn chẳng thục chẳng thục, căn thục có thục.

Đức Như Lai biết rõ căn sanh tử, căn giải thoát, căn trang nghiêm, căn cụ túc.

Tất cả căn tánh nhân duyên quả báo Phật đều biết rõ thấy rõ, đây gọi là nghiệp thứ năm của Chư Phật Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết căn đã rốt ráo

Nên biết trình độ các chúng sanh

Cũng biết rõ căn hạ trung thượng

Gồm đến các nghiệp cũng biết rõ

Biết rõ phiền não căn nặng nhẹ

Các căn khó điều hay dễ điều

Biết căn sanh tử căn giải thoát

Biết rõ nhãn căn đến ý căn

Biết căn hành xứ và diệt xứ

Biết rõ các căn ba thừa

Chuyển được hay chẳng chuyển được

Căn chúng sanh thục hay chẳng thục

Theo đúng căn cơ mà thuyết pháp

Khéo lời trách dịu để điều phục

Biết kẻ chẳng thể dạy bảo được

Vì hạng này mà tu tâm xả

Như Lai khéo biết các phương tiện

Để phá phiền não trang nghiêm trí

Vì phá phiền não của chúng sanh

Nên nói lực thứ năm của Phật.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chân thật biết chí xứ đạo.

Biết thế nào?

Đức Như Lai biết là chánh định tụ, biết là tà định tụ, biết là bất định tụ, biết nghiệp nhân lực và quả báo lực, biết nhân duyên phước đức đời quá khứ, biết nhân duyên trang nghiêm đời hiện tại, biết khó điều hay dễ điều, biết nói lược mà giải rộng.

Biết nói rộng mà lược giải, biết là chúng sanh có thể được giải thoát, biết là chúng sanh chẳng được giải thoát, biết là người bất định gặp thiện tri thức thì trụ ở chánh định tụ, nếu chẳng được thiện tri thức thì không giải thoát, biết rồi Đức Như Lai theo đúng ý nguyện mà vì người đó thuyết pháp, người ấy nghe rồi nhiếp niệm tư duy chứng được thiện quả.

Đức Như Lai xuất thế chỉ vì hạng bất định tụ mà trọn chẳng vì hạng tà định thuyết pháp, tại sao, vì họ chẳng phải là pháp khí họ chẳng thể được chân giải thoát, vì vậy mà ở nơi hạng này Đức Như Lai tu tập tâm xả.

Đại Bồ Tát biết thiệt rõ rồi siêng tu trang nghiêm để phá chúng sanh tà định như vậy, do đây mà Bồ Tát phát tâm vô thượng bồ đề.

Đức Như Lai khéo biết tham có ba loại:

Một là vì do thấy đẹp sạch.

Hai là vì nhân duyên nhận thọ.

Ba là vì nhân duyên trước.

Biết sân cũng có ba loại, đó là nhân duyên sân, nhân duyên thọ và nhân duyên trước. Biết si cũng có ba loại, đó là nhân duyên vô minh, nhân duyên ngã kiến và nhân duyên lưới si mê.

Lại nữa, Đức Như Lai biết các chúng sanh khổ trì được thông, khổ tốc được thông. Biết người khổ trì có thể được lạc tốc, biết người lạc tốc có thể được khổ trì, biết người lạc trì có thể được lạc tốc, biết là người có tu lực, biết là người có trí lực.

Lại biết có đạo có đủ tu lực mà chẳng đủ trí lực, có đủ trí lực mà chẳng đủ tu lực. Có đủ tu lực và có đủ trí lực, chẳng có đủ tu lực và chẳng có đủ trí lực.

Lại biết có đạo có thể tâm thanh tịnh mà chẳng thể trang nghiêm, có thể trang nghiêm mà không thể tâm thanh tịnh, có thể tâm thanh tịnh và có thể trang nghiêm, không thể tâm thanh tịnh và không thể trang nghiêm.

Lại biết có đạo có thể thanh tịnh thân mà chẳng thể thanh tịnh khẩu ý, có thể thanh tịnh khẩu ý mà chẳng thể thanh tịnh thân, có thể thanh tịnh cả thân khẩu ý, chẳng thể thanh tịnh cả thân khẩu ý.

Đây gọi là lực thứ sáu của Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ đạo chỗ đến

Cũng biết nhân duyên các chúng sanh

Cũng hay biết rõ định bất định

Thông đạt rõ ràng điều chẳng điều

Chẳng vì tà định mà nói pháp

Cũng chẳng điều phục căn chưa thục

Biết rõ tham sân si ba loại

Cũng biết các kiết tướng khinh trọng

Biết rõ bốn đạo chuyển chẳng chuyển

Vì thế Phật biết đạo rốt ráo

Chân thật biết tu lực trí lực

Hạ Trung thượng lực biết rõ

Biết thân khẩu ý tịnh chẳng tịnh

Tâm tịnh trang nghiêm cũng biết rõ

Chúng sanh các căn phiền não giới

Như Lai biết rồi vì họ phá

Vì chúng sanh vô minh tối kia

Nói nghiệp thứ sáu của Như Lai.

Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai biết thiền giải thoát, tam muội phiền não giải thoát, biết thế nào?

Đức Như Lai biết các chúng sanh do nhân duyên mà thích sanh tử, biết các chúng sanh do nhân duyên mà ưa Niết Bàn.

Thế nào gọi là nhân và thế nào gọi là duyên?

Nếu các chúng sanh tư duy bất thiện đây gọi là sanh tử nhân duyên.

Do bất thiện tư duy mà sanh trưởng vô minh, vì vậy bất thiện là nhân và vô minh là duyên.

Do vô minh mà sanh hành, vì vậy vô minh là nhân và hành là duyên.

Do hành mà sanh thức, vì vậy hành là nhân và thức là duyên.

Do thức mà sanh danh sắc, vì vậy thức là nhân và danh sắc là duyên.

Do danh sắc mà sanh lục nhập, vì vậy danh sắc là nhân và lục nhập là duyên.

Do lục nhập mà sanh xúc, vì vậy lục nhập là nhân và xúc là duyên.

Do xúc mà sanh thọ, vi vậy xúc là nhân thọ là duyên.

Do thọ sanh ái, vì vậy thọ là nhân và ái là duyên.

Do ái sanh thủ, vì vậy ái là nhân và thủ là duyên.

Do thủ sanh hữu, vì vậy thủ là nhân và hữu là duyên.

Do hữu sanh sanh, vì vậy hữu là nhân mà sanh là duyên.

Do sanh thì có các khổ lão tử v.v... vì vậy sanh là nhân và lão tử là duyên. Phiền não là nhân và các nghiệp là duyên.

Các kiến chấp là nhân và ái kiết là duyên. Phiền não là nhân và ngũ cái là duyên. Như vậy gọi là nhân và gọi là duyên. Các chúng sanh do những nhân và duyên này mà tham ưa sanh tử.

Do nhân duyên gì mà ưa thích Niết Bàn?

Có hai nhân và hai duyên làm cho chúng sanh ưa thích Niết Bàn.

Những gì là hai?

Một là vui mừng nghe chánh pháp.

Hai là thích chánh tư duy.

Một là Xa ma tha, hai là Tỳ Bà xá na.

Một là trí bất khứ, hai là trí bất lai.

Một là quán sanh tử, hai là quán Niết Bàn.

Một là thọ trì đúng pháp, hai là được chứng nhập.

Một là tu giải thoát môn, hai là được quả giải thoát.

Một là tận trí, hai là vô sanh trí.

Một là tứ đế trí, hai là quán thập nhị nhân duyên.

Trên đây gọi là nhân và gọi là duyên, mà các chúng sanh do các nhân duyên này ưa thích Niết Bàn.

Đức Như Lai biết rõ các loại thiền tam muội giải thoát. Đã biết rõ rồi lìa bỏ các pháp dục ác bất thiện có giác quán ly sanh hỉ lạc nhập vào Sơ Thiền, nhập Sơ Thiền xuất diệt tận định, nhập diệt tận định xuất Sơ Thiền, nhẫn đến bát giải thoát cũng nhập xuất như vậy.

Tất cả chúng sanh đều chẳng thể biết được chỗ nhập chỗ xuất của Như Lai.

Đức Như Lai biết rõ trụ định bình đẳng, cho đến thượng và hạ. Các chúng sanh bảo rằng Đức Phật nhập một tam muội, mà thiệt thì Đức Phật nhập tất cả tam muội. Các chúng sanh thấy Đức Phật khởi tất cả định, mà thiệt thì Đức Phật nhập một chánh định.

Tam Muội của Đức Như Lai không có thứ đệ, mà chẳng phải là chẳng chánh định. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát đều chẳng biết được.

Đức Như Lai lại biết rõ nhân duyên thuyết pháp gì được Thanh Văn tam muội, nhân duyên thuyết pháp gì được Duyên Giác tam muội, nhân duyên thuyết pháp gì được Bồ Tát tam muội, biết rõ rồi Đức Như Lai tùy ý vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ bảy của Đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ nhân sanh tử

Cũng thông đạt nhân duyên giải thoát

Biết rõ rồi vì đại chúng nói

Phá hoại nhân bất thiện sanh tử

Bất thiện tư duy vô minh nhân

Vô minh nhân duyên lớn sanh tử

Phiền não nhân duyên thọ nghiệp quả

Các kiết nhân duyên tăng ái kiết

Nếu được gần kề thiện tri thức

Chí tâm nghe nhận pháp vô thượng

Quán sát nội ngoại không tam muội

Có thể vượt khỏi biển sanh tử

Tu tập vô thượng định và huệ

Quán pháp bình đẳng không khứ lai

Nếu hay quán thấy không sanh diệt

Thì được mắt tịch tĩnh sáng suốt

Tu tập vô thượng giải thoát môn

Có đủ tận trí vô sanh trí

Đã tự mình được trí vô ngại

Lại hay vì chúng sanh thuyết pháp

Nhập sơ thiền xuất diệt tận định

Nhập diệt tận định tùy ý xuất

Như Lai tam muội không thứ đệ

Nên gọi Như Lai thường ở định

Các chánh định được Như Lai nhập

Cùng các pháp giới không sai khác

Nhị thừa chẳng biết chỗ Phật trụ

Bồ Tát chẳng biết chỗ Phật thâm định

Chúng sanh thường ở vô minh tối

Chẳng biết chỗ nhập xuất của Phật

Vô thượng Thế Tôn thương chúng sanh

Vì họ mà nói nghiệp thứ bảy.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ những nghiệp đời quá khứ của mình, một đời hai đời đến vô lượng đời, một thời gian tam tai đến vô lượng thời gian tam tai, một kiếp đến vô lượng kiếp.

Đức Như Lai nhớ rõ sanh ra danh tánh, ăn uống, hình sắc, dung mạo, khổ vui, thọ mạng cõi này chết sanh đến cõi kia.

Đức Như Lai cũng nhớ biết rõ đời trước của người khác như nhớ biết rõ của mình vậy.

Đức Như Lai biết rõ nghiệp nhân của các chúng sanh, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhân ấy được thân ở cõi kia, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhân ấy được thân ở cõi này.

Đức Như Lai biết tâm và nhân duyên tâm của các chúng sanh, tâm này diệt rồi thứ đệ sanh tâm. Các sự như vậy, tất cả chúng sanh đều không thể biết rõ được. Trí túc mạng của Đức Phật biết rõ sự việc thỉ chung của tất cả tam thế. Túc mạng trí này chẳng thể suy lường được.

Đức Như Lai khuyên các chúng sanh: Nay ngươi nên nhớ biết sự việc thiện ác đã trải qua trong đời quá khứ. Do Phật lực nên chúng sanh nhớ biết được vô lượng thiện căn đã được vun trồng từ đời trước, hoặc ở bên Phật mà vun trồng, hoặc ở bên Bồ Tát hay ở bên Thanh Văn và Duyên Giác mà vun trồng.

Chúng sanh ấy đã nhớ biết rồi, Đức Như Lai tùy ý thuyết pháp cho họ chẳng thối chuyển. Đây gọi là nghiệp thứ tám của Đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai nhớ biết vô lượng đời

Hoặc tự hoặc tha nghiệp thiện ác

Thấy rõ việc trong vô lượng kiếp

Như thấy rõ trái trong bàn tay

Dòng họ tên hiệu đều biết rõ

Hình sắc sanh tử cũng biết rõ

Biết rõ thọ mạng và chỗ ở

Nghiệp nhân thiện ác cũng biết rõ

Biết tâm thứ đệ của chúng sanh

Biết chỗ sở nhân tâm sanh diệt

Biết khắp đời trong vô lượng kiếp

Cũng chẳng cùng tận trí vô ngại

Phật trí vô lượng chẳng kể được

Nhị thừa chẳng biết cảnh giới Phật

Vì cho chúng sanh nhớ quá khứ

Nên Phật tuyên nói nghiệp thứ tám.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần