Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI MỐT
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
PHẦN NĂM
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai Thiên Nhãn thanh tịnh vi diệu thấy rõ các chúng sanh sanh tử đọa lạc, hoặc kẻ thọ thân lành hoặc kẻ thọ thân ác, hoặc sanh cõi lành hoặc sanh cõi ác.
Đức Như Lai cũng biết thấy rõ các nghiệp nhân của chúng sanh. Biết chúng sanh này thân khẩu ý ác, chê bai Thánh Nhân thêm lớn tà kiến, do nghiệp ác nên khi bỏ thân này phải đọa địa ngục.
Biết các chúng sanh này thân khẩu ý lành, tôn kính Thánh Nhân thêm lớn chánh kiến, do nghiệp lành nên bỏ thân này được sanh cõi lành.
Thiên Nhãn của Như Lai thấy khắp mười phương Thế Giới không có ngằn mé như hư không, không có hạn lượng như pháp giới.
Thấy rõ các chúng sanh lúc sanh lúc chết, thấy rõ các Thế Giới lúc thành lúc hoại. Cũng biết các chúng sanh phát tâm bồ đề lúc sanh lúc chết. Cũng thấy tất cả Chư Phật mới thành Chánh Giác Chuyển Pháp Luân nhập Niết Bàn. Cũng thấy các bậc Thanh Văn lúc chứng được giải thoát, được giải thoát rồi nhập Niết Bàn.
Thấy hàng Duyên Giác dùng sức thần thông để báo ơn tín thí của các chúng sanh. Các sự việc như vậy tất cả hàng ngũ thông Thanh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đều không thấy biết được. Thiên Nhãn của Đức Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Do Thiên Nhãn ấy nhìn xem các chúng sanh ai đáng được Phật hóa độ, ai nên được Thanh Văn hoặc Duyên Giác hóa độ.
Nếu là người đáng từ nơi Phật mà được độ thì Đức Như Lai vì người ấy mà thị hiện thân Phật, các chúng sanh khác đều không ai thấy. Đây gọi là nghiệp thứ chín của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Tu nghiệp lành trong vô lượng kiếp
Phật được tịnh thiện nhãn như vậy
Thấy được mười phương các chúng sanh
Thành tựu được sắc thân thiện ác
Thầy các chúng sanh thượng trung hạ
Cũng thấy thọ thân cõi thiện ác
Biết được nghiệp lành thân khẩu ý
Nghiệp nhân cảm được các quả báo
Cũng biết Thanh Văn Bích Chi Phật
Các bậc Bồ Tát cảnh giới lành
Thấy mười phương Phật phá ma quân
Chuyển chánh pháp luân nhập Niết Bàn
Thấy các Thanh Văn được giải thoát
Giáo hóa chúng sanh rồi diệt độ
Thấy Bích Chi Phật hiện thần thông
Để đền ơn đức của thí chủ
Chân thiện pháp của Như Lai nói
Nghe rồi hay qua biển sanh tử
Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác
Chẳng biết được chỗ thấy của Phật
Như lai thấy rõ các vi trần
Cũng thấy rõ vô biên Thế Giới
Như Lai giáo hóa các chúng sanh
Vì vậy nên nói nghiệp thú chín.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai Thế Tôn biết các lậu tận rốt ráo giải thoát, sanh tử ta đã hết, phạm hạnh ta đã lập, việc làm đã xong không còn thân đời sau.
Trí lậu tận của Phật thanh tịnh vi diệu. Nói là thanh tịnh là không có các tập khí. Trí Thanh Văn hữu biên hữu lượng, tại sao, vì có tập khí vậy. Trí Bích Chi Phật cũng có biên có lượng, tại sao, vì không có đại bi vậy.
Trí lậu tận của Phật vô lượng vô biên, tại sao, vì biết tất cả hành vậy, vì thành tựu nhất thiết trí vậy, vì dứt hẳn tất cả tập khí vậy, đã nhiếp lấy đại từ đại bi, trang nghiêm tứ vô sở úy, nơi tất cả pháp không có tập khí duyên lấy tướng dạng, tất cả thế gian chẳng thế hơn được, đi đứng ngồi nằm không có lỗi lầm.
Như hư không thanh tịnh trong sáng chẳng xen tạp khói mây. Trí lậu tận của Đức Phật cũng vậy, chẳng xen tạp tất cả phiền não tập khí.
Đức Như Lai thành tựu thanh tịnh đầy đủ trí lậu tận ấy, có thể vì chúng sanh mở bày tuyên nói cho họ nghe rồi dứt các phiền não, Chư Bồ Tát nghe rồi phát đại trang nghiêm để dứt các phiền não. Đây gọi là nghiệp thứ mười của Đức Phật Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật lậu tận trí không có biên
Thanh tịnh chẵng tạp phiền não tập
Nhị thừa còn tập khí phiền não
Nên trí lậu tận chẳng thanh tịnh
Như Lai đầy đủ đại từ bi
Vì vậy trí Phật không ngằn mé
Đầy đủ thành tựu tất cả hạnh
Nên biết chỗ lậu hạnh chúng sanh
Phật diễn nói vô thường vô ngã
Cho chúng biết rỗng không không vui
Tu thiện tư duy được tịnh nhãn
Biết không chúng sanh không tướng nhân
Đại bi thương xót các chúng sanh
Đầy đủ thập lực tứ vô úy
Trí vô ngại vì dứt phiền não
Vì vậy tuyên nói nghiệp thứ mười.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai đầy đủ bốn vô sở úy mà thành Như Lai nghiệp.
Đức Như Lai biết rõ tất cả pháp, hoặc có Trời, hoặc có Người, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn nào mà có thể đúng thiệt nói rằng Như Lai chẳng biết pháp chẳng rõ pháp, thì không bao giờ có.
Tại sao vậy, vì Như Lai Thế Tôn hiệu là bậc Biến Chánh Giác, biết rõ pháp bình đẳng, hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thánh Nhân, hoặc pháp Thanh Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Phật, hoặc pháp hữu học.
Hoặc pháp vô học, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, các pháp như vậy đều bình đẳng biết rõ nên hiệu là đấng Biến Chánh Giác.
Nói bình đẳng là thấy rỗng không bình đẳng vì pháp chân thật vậy, là vô tướng bình đẳng vì hoại các tướng vậy, là vô nguyện bình đẳng vì chẳng trụ trước ba cõi vậy, là bất sanh bình đẳng vì tánh vô sanh vậy là vô hành bình đẳng vì tánh vô hành vậy.
Là vô xuất bình đẳng vì tánh vô xuất vậy, là vô chí xứ bình đẳng vì tánh vô chí xứ vậy, là chân thật bình đẳng vì tánh không có Tam Thế vậy, trí giải thoát bình đẳng vì tánh không có vô minh vậy, là Niết Bàn bình đẳng vì tánh không có sanh tử vậy.
Thấy tất cả pháp như vậy thảy đều bình đẳng nên Đức Như Lai hiệu là bậc Biến Chánh Giác. Thấy rõ như vậy rồi dùng đại từ bi Đức Như Lai vì các chúng sanh mà tuyên dương thuyết pháp.
Hoặc có kẻ chẳng phải Thế Tôn mà tưởng là Thế Tôn, chẳng phải Chánh Giác mà tưởng là Chánh Giác, chẳng phải lậu tận mà tưởng là lậu tận.
Đức Như Lai có đủ bốn vô sở úy có thể phá hoại các ác tưởng như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười một của Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật biết tất cả pháp bình đẳng
Nên được hiệu là Nhất thiết trí
Phàm thánh Bồ Tát và Phật hạnh
Thế gian xuất thế nghiệp thiện ác
Không vô tướng nguyện vô sanh diệt
Tất cả thấy rõ chân thật ấy
Như Lai thấy rõ pháp bình đẳng
Vì chúng nói nghiệp thứ mười một.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chân thật dứt hết hẳn các lậu phiền não tập khí nên xướng lên rằng: Phật hết các lậu. Chẳng có hoặc là Trời, là Người, là Ma, là Phạm, hoặc là Sa Môn, là Bà La Môn nào có thể chân thật nói rằng Phật chưa hết lậu.
Thế nào gọi là Đức Như Lai lậu tận?
Đức Phật ở nơi dục lậu, tâm được giải thoát ở nơi hữu lậu, nơi vô minh lậu, nơi tất cả tập khí, nơi tất cả kiến lậu, tâm được giải thoát. Vì vậy Đức Như Lai hiệu là bậc lậu tận.
Trong đệ nhất nghĩa, chân trí của Thánh Nhân, không có giác, không có đoạn, không có chứng, không có tu, vì lưu bố thế tục mà gọi là tận lậu.
Tại sao, vì tận là vô sanh vô diệt vô tận không có thể tuyên nói được. Vì chẳng nói được nên gọi là vô vi. Luận về vô vi thì không có tướng sanh trụ diệt. Đức Phật hoặc xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tánh luôn thường trụ.
Đức Như Lai chẳng thấy có ngã và ngã đoạn dứt, vì đại từ bi mà Đức Như Lai vì chúng sanh nói ngã đoạn dứt. Đây gọi là nghiệp thứ mười hai của Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai dứt hẳn các lậu kiết
Cũng dứt vô biên các tập khí
Vì vậy thế pháp chẳng nhiễm được
Như sen ở nước nước không thấm
Đấng Đại Bi Pháp Vương trong đời
Vì chúng sanh mà lưu bố nói
Chân thật biết rõ không sanh diệt
Vô ngã ngã sở cũng biết thiệt
Tất cả các pháp không tăng giảm
Theo tánh tướng nó nói chân thật
Như Lai được sức đại tự tại
Vì chúng nối nghiệp thứ mười hai.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chân thật nói pháp ngăn chướng đạo. Chẳng có hoặc Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc Sa Môn Bà La Môn nào có thể chân thật nói rằng pháp ấy chẳng thể ngăn chướng được đạo.
Thế nào gọi là ngăn?
Thế nào là chẳng ngăn?
Có một pháp hay ngăn đạo đó là phóng dật.
Còn có hai pháp đó là vô tàm và vô quý.
Còn có ba pháp đó là thân, khẩu, ý, ác.
Còn có bốn pháp đó là tham dục, sân hận, kinh bố và ngu si.
Còn có năm pháp đó là sát sanh, trộm cướp, tà dâm dục, vọng ngữ, và uống rượu.
Còn có sáu pháp đó là chẳng kính trọng Phật, Pháp, Tăng, giới, tam muội và bất phóng dật.
Còn có bảy pháp đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, tà mạn, tà ngữ, tà mạng và tà niệm.
Còn có tám pháp, đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm và tà định.
Còn có chín pháp, đó là có người muốn làm các điều ác hiện tại làm, làm rồi đổ cho người thân mình, có người đem điều lành muốn đang đã làm đổ cho kẻ oán mình, có người đem điều ác muốn đang đã làm đổ cho thân mình, đây gọi là chín pháp.
Còn có mười pháp, đó là thập ác:
Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, vô nghĩa ngữ, tham ganh, sân hại và tà kiến.
Nếu có Tỳ Kheo khởi ác tư duy, do đây mà chẳng biết là có nhiều các lỗi lầm. Do chẳng biết mà sanh tâm điên đảo. Do tâm điên đảo mà thêm lớn ngũ cái. Do lớn ngũ cái làm cho các phiền não ngăn chướng pháp lành. Do phiền não mà thân khẩu ý tạo gây các điều ác.
Đức Như Lai như thìệt biết các pháp như vậy hay ngăn chướng nơi đạo. Đã tự biết rõ rồi vì chúng sanh mà diễn nói để phá hoại các pháp ngăn đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười ba của Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu ai quen hành theo phóng dật
Thì thiệt chẳng thể được giải thoát
thân khẩu ý tạo các ác nghiệp
Vô tâm vô quí các phiền não
Gần gũi ác pháp thì ngăn đạo
Biết rõ đối trị chẳng đối trị
Để phá phiền não nên diễn nói
Nghiệp thứ mười ba của Như Lai.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chân thật nói Thánh đạo rốt ráo.
Nếu có chúng sanh gần kề chánh niệm thì chắc được giải thoát. Chẳng có ai hoặc là Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc là Sa Môn, Bà La Môn, Bà La Mộn nào mà có thể chân thật nói rằng người tu tập Thánh đạo chẳng được rốt ráo vô thượng giải thoát.
Những gì là chân thật Thánh đạo?
Có một thứ đó nhất thừa.
Còn có hai thứ, đó là Xa ma tha và Tỳ bà xá na.
Còn có ba thứ, đó là không tam muội, vô tướng tam muội và vô nguyện tam muội.
Còn có bốn thứ, đó là tứ niệm xứ.
Còn có năm thứ, đó là ngũ căn.
Còn có sáu thứ, đó là lục niệm xứ.
Còn có bảy thứ, đó là thất giác chi.
Còn có tám thứ, đó là bát Thánh đạo phần.
Còn có chín thứ, đó là Sơ Thiền đến diệt tận định.
Còn có mười thứ, đó là Thập Thiện.
Đây gọi là rốt ráo chân thật Thánh đạo.
Lại rốt ráo Thánh đạo là không có thể làm tăng giảm lấy bỏ, không có nắm không có buông, chẳng phải chánh chẳng phải tà, chẳng phải một chẳng phải hai, đây gọi là Thánh đạo rốt ráo chân thật vậy. Vì thương xót các chúng sanh mà Đức Như Lai tuyên nói Thánh đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười bốn của Đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai biết rõ pháp tịch tĩnh
Ai tu tập thì được giải thoát
Như Lai không thấy không ai dạy
Tự nhiên mà được vị Cam Lộ
Ai tu ba mươi bảy trợ đạo
Phiền não kiết dứt được giải thoát
Tư duy biết rõ pháp chân thật
Chẳng trụ pháp tánh chân giải thoát
Như Lai thấy pháp như hư không
Như huyễn như hóa như dương diệm
Đấng đủ thập lực vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp thứ mười bốn.
Lại nữa, này thiện nam tử! Thân nghiệp Như Lai không có lầm lỗi. Hoặc kẻ ngu hoặc người trí không ai có thể chân thật nói Phật có lỗi lầm. Tại sao, Đức Như Lai hoặc đi hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đắp y, hoặc cầm bát, hoặc thọ ăn uống, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nói, hoặc nhập xuất thành ấp thôn lạc nhà cửa, bàn chân Phật không đạp đất, thường bước đi trên hoa sen ngàn cánh.
Nếu có chúng sanh nào gặp chạm bóng thân Phật thì trong bảy ngày an vui không nghĩ tưởng đến ăn uống, khi bỏ thân sanh về cõi lành.
Y phục của Như Lai mặc lìa cách thân Phât bốn tấc, sức gió mạnh bạo không làm động được. Đức Như Lai dầu có những sự việc hành động nói năng như vậy, mà nội tâm Phật chưa lúc nào chẳng định. Vì vậy mà thân Như Lai không có lỗi lầm.
Này thiện nam tử! Như Lai khẩu nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì Đức Như Lai luôn là thời ngữ, chân thật, ngữ chánh ngữ, kỳ ngữ, nghĩa ngữ, thanh tịnh ngữ, vi diệu ngữ, vô dị ngữ, nhất âm ngữ, lời nói chẳng nhiều, lời hiểu tất cả, lời đúng như làm. Vì vậy nên Như Lai khẩu không có lỗi lầm.
Này thiện nam tử! Như Lai ý nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì Đức Như Lai thường làm tất cả Phật Sự luôn mà nội tâm Phật không hề có kiêu mạn. Đức Như Lai chẳng nhọc suy nghĩ mà biết rõ cùng tận hết tất cả pháp, nên gọi là Phật vô ngại trí. Vì vậy mà Như Lai ý nghiệp không có lỗi lầm.
Vì thương xót chúng sanh nên Đức Như Lai tuyên nói thân khẩu ý Phật không có lỗi lầm như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười lăm của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Thân khẩu ý Như Lai tịch tĩnh
Vì vậy nên không có lỗi lầm
Thiệt chẳng nói được mà tuyên nói
Nghiệp chẳng phải nghiệp nói là nghiệp.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chẳng sanh việc tranh cãi với hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn. Tại sao, vì Như Lai rốt ráo lìa thương và giận vậy. Do đây nên tất cả thế gian cúng dường cung kính, tâm Phật chẳng cao ngạo cũng chẳng vui mừng.
Tất cả thế gian khinh mạn chê bai, tâm Phật không có xúc động. Phàm việc được Phật làm thì không có sự nào là chẳng thành tựu. Phật hoàn toàn không có tạo tác nghiệp bất thiện.
Đức Như Lai thiệt không có sự tranh luận với tất cả thế gian, cũng luôn an trụ vô tránh tam muội. Đức Như Lai không có ngã không có ngã sở hữu, vì phá sự thị phi tranh tụng của chúng sanh mà nói nghiệp này. Đây gọi là nghiệp thứ mười sáu của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai tu tập vô tránh định
Nên tâm Phật không giận không mừng
Như Lai vì dứt các phiền não
Nên tuyên nói nghiệp thứ mười sáu.
Lại nữa, này thiện nam tử! Tâm Như Lai không có quên lầm, với bát giải thoát không có mất niệm tâm. Như Lai thường quán ý hành của tất cả chúng sanh, quán rồi lại hay tùy nghi thuyết pháp. Với bốn vô ngại cũng không thất niệm.
Ở trong tam thế nhớ biết không quên. Đã tự mình chẳng mất tâm nhớ biết lại vì chúng sanh mà tuyên nói pháp nhớ biết này. Đây gọi là nghiệp thứ mười bảy của Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai tu tập bát giải thoát
Nên với các pháp chẳng thất niệm
Biết tâm chúng sanh tùy nghi nói
Cho chúng được niệm nói nghiệp này.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai chân thật không có tâm bất định. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói, hoặc nín, thướng biết nghĩa thâm diệu của các pháp.
Tất cả thế gian hoặc có người nhập định hoặc chẳng nhập định, không ai có thể biết được tâm Như Lai, chỉ trừ Chư Phật gia đạo lực cho họ.
Vì muốn cho vô lượng tất cả chúng sanh thường tại chánh định nên nói nghiệp Phật như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười tám của Đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai Chánh Giác thường tại định
Việc được Phật làm không tán loạn
Thường nhập tam muội không ai biết
Vì vậy tuyên nói nghiệp mười tám.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai chân thật không có các loại suy tưởng. Đó là không có phân biệt là phước điền là chẳng phải phước điền, cũng không có phân biệt là chúng sanh là pháp là Chánh Giác là pháp giới, không có phân biệt là trì giới là phá giới, cũng không có phân biệt là oán là thân, là thọ nhận là chẳng thọ nhận, cũng không có tưởng phân biệt là chánh kiến là tà kiên.
Vì vậy mà Đức Như Lai không có các ý tưởng. Muốn phá các thứ tưởng phân biệt như vậy của các chúng sanh mà Đức Như Lai tuyên nói nghiệp này. Đây gọi là nghiệp thứ mười chín của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai dứt hẳn tất cả tưởng
Do đây biết rõ các pháp giới
Vì phá chúng sanh ngần ấy tưởng
Nói nghiệp thứ mười chín của Phật.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai theo trí mà tâm xả. Không có chẳng biết mà xả, tại sao, vì tu thân vì tu giới vì tu định vì tu huệ vì dứt nghi vậy.
Tâm xả của Như Lai ra khỏi các thế gian, tức là thánh xả, là rốt ráo xả, là chuyển thanh tịnh phạm luân xả, là hai mươi tám đại bi xả, là lợi ích chúng sanh xả, là đối trị xả.
Các đức xả như vậy không có tăng không có giảm, chẳng cao chẳng thấp, chẳng xen tạp phiền não, chẳng một chẳng hai, chẳng quán thời tiết, chẳng có đối không có ngại, chẳng dừng chẳng động, chẳng ẩn chẳng hiển, là chân thật bất hư vậy.
Đức Như Lai thành tựu đức đại xả như vậy mà có thể vì các chúng sanh tuyên nói. Đây gọi là nghiệp thứ hia mươi của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai tu thân giới tâm huệ
Từ trí huệ mà tu tâm xả
Với các chúng sanh không thương giận
Chẵng động chẳng dừng chon thiệt xả
Đấng vô thượng đại từ đại bi
Có đủ đức đại xả như vậy
Trí vô ngại điều phục chúng sanh
Nói nghiệp thứ hai mươi thanh tịnh.
Lại nữa, này thiện nam tử! Nghiệp thích muốn của Đức Như Lai không có tăng không có giảm.
Những gì gọi là thích muốn?
Đó là thích muốn các pháp lành, những là đại từ đại bi thuyết pháp độ người an trụ tịch tĩnh khuyên dạy các Bồ Tát học đạo Bồ Đề làm cho giống Tam Thừa nối nhau không dứt. Tất cả các thích muốn như vậy chẳng theo tâm thích muốn sanh, mà theo trí huệ sanh.
Vì muốn cho tất cả chúng sanh có đủ vô thượng bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp này. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi mốt của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đức muốn của Phật không tăng giảm
Do đại từ bi nên thuyết pháp
Chẳng dứt Tam Thừa vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp Phật như vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đức Như Lai tinh tiến không có thôi nghỉ.
Thế nào là chẳng thôi nghỉ?
Đó là điều phục chúng sanh thuyết pháp giáo hóa. Giả sử có một người có thể trong thời gian vô lượng kiếp ở bên Phật nghe pháp Đức Như Lai sẽ vì người này thuyết pháp không thôi nghỉ.
Nếu có một Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp Như Lai cũng nghe mãi không có lòng nhác lười thôi bỏ. Nếu quá vô lượng hằng hà sa Thế Giới có một chúng sanh đáng được độ.
Như Lai cần phải theo chẳng rời bỏ chẳng ăn chẳng nghỉ, chẳng hề sanh tâm mõi mệt hối hận thối chuyển, Phật thường khuyên bảo chúng sanh cho họ siêng năng tinh tiến. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi hai của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đấng có đức tinh tiến vô thượng
Ở trong đại chúng khen tinh tiến
Tinh tiến thuyết pháp không thôi nghỉ
Là nghiệp Phật thứ hai mươi hai.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai niệm tâm không có tăng không có giảm.
Tại sao, lúc mới được vô thượng bồ đề, Như Lai quán khắp tâm tất cả chúng sanh quá khứ vị lai hiện tại, sau đó lúc thuyết pháp chẳng mất niệm trước, nhớ rõ ba tụ trước và ba loại căn tánh, phàm lúc Như Lai thuyết pháp không lúc nào chẳng niệm. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi ba của Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai lúc mới được bồ đề
Quán khắp chúng sanh tâm đúng thiệt
Phàm lúc thuyết pháp chẳng thất niệm
Phật nói nghiệp thứ hai mươi ba.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai tam muội với tất cả pháp bình đẳng không có giảm, vì vậy nên Chư Phật tất cả bình đẳng, nơi tất cả một ức loại tham dục sân hận ngu si và một ức loại không tham sân si, tâm Phật bình đẳng không có sai biệt. Với tất cả loại hữu vi vô vi sanh tử Niết bàn cũng như vậy.
Như Lai tam muội bình đẳng như vậy chẳng rời nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý tứ đại tam giới, chẳng phải đây chẳng phải kia, cũng chẳng phải tất cả, chẳng phải tăng chẳng phải giảm.
Vì làm cho chúng sanh được tam muội như vậy nên Như Lai tuyên nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bốn của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai quán khắp tất cả pháp
Tâm Phật thường định không tán loạn
Chẳng bị nhiếp thuộc bởi Tam Giới
Sáu căn Tứ Đại cũng như vậy
Tất cả các pháp vô sai biệt
Bình đẳng quán sát thiện bất thiện
Vi muốn chúng sanh được định này
Nên nói nghiệp Phật thứ hai bốn.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai trí huệ thường không giảm ít. Dùng trí lực này biết tất cả pháp hay tùy ý thích của chúng sanh mà thuyết pháp.
Như Lai được trí vô ngại biết tất cả nghĩa, biết tất cả chữ, biết tất cả câu, trong vô lượng kiếp diễn nói một câu pháp ra vô lượng nghĩa dứt tất cả nghi.
Như Lai nói pháp Tam Thừa đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đây gọi là vô lượng vô biên trí huệ. Vì cho chúng sanh được trí huệ như vậy mà Đức Như Lai diễn nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi lăm của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật trí huệ vô ngại vô biên
Hay nói vô ngại vô biên pháp
Diễn một chữ làm vô lượng câu
Diễn một câu làm vô lượng nghĩa
Nói tám vạn bốn ngàn pháp môn
Cũng nói số khối pháp như vậy
Làm cho chúng được trí vô ngại
Nên Phật nói nghiệp hai mươi lăm.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai giải thoát không có giảm ít. Hàng Thanh Văn do nghe pháp nơi người khác mà được giải thoát. Hàng Duyên Giác từ nhân duyên mà được giải thoát.
Chư Phật Như Lai không có thấy tự nhiên giác ngộ dứt hẳn phiền não và tập khí. Với quá khứ chẳng xét, với vị lai chẳng dính, với hiện tại chẳng trụ, cũng chẳng tham trước hai pháp nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp.
Như Lai biết rõ tâm tánh thanh tịnh nên xướng lên rằng, trong một niệm Như Lai được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Vì muốn chúng sanh trong một niệm được vô thượng bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi sáu của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Thanh Văn do nghe được giải thoát
Duyên Giác nhân duyên được tỏ ngộ
Như Lai giải thoát không sở nhân
Chẳng trước Tam Thế tâm tánh tịnh
Phật diễn thuyết pháp vì giải thoát
Quán các chúng sanh vô thượng đạo
Đại từ đại bi vì chúng nói
Nghiệp Như Lai thứ hai mươi sáu.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai thân nghiệp tùy trí huệ hành, luôn bao quanh bởi trí huệ, do thân nghiệp này mà Như Lai lúc thuyết pháp, lúc nín lặng, lúc đi đứng ngồi nằm, lúc uống ăn, lúc đi ra thành ấp tụ lạc, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp, chúng sanh thấy hay nghe đều được điều phục, vì vậy mà tất cả thân nghiệp Như Lai tủy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bảy của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Thân nghiệp Như Lai vì chúng sanh
Nên hiện những tướng tốt vi diệu
Phàm có cử động lợi chúng sanh
Phật vì đại chúng nói nghiệp này.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai khẩu nghiệp tùy trí huệ hành, tại sao, vì thanh tịnh thuyết pháp vậy, vì không có thất thoát vậy, vì là lời chân chánh, lời dễ hiểu, lời dễ biết, lời chẳng cao chẳng hạ, lời chẳng cong vạy, lời chẳng thô, lời chẳng ác, lời chẳng mờ tối, lời dịu dàng, lời chẳng khinh, lời chẳng mau, lời chẳng e sợ, lời chẳng phải chẳng hiểu nghĩa, lời chẳng phải tiếng ác.
Lời chẳng chậm, lời Cam Lộ, lời khả ái, lời có thứ đệ, lời trang nghiêm, lời cung kính, lời thích nghe, lời chẳng tham, lời chẳng nhơ, lời thanh tịnh, lời rốt ráo, lời chẳng lừa dối, lời chẳng si mê, lời vô ngại, lời rộng rãi, lời chân thật, lời chẳng tạo tác, lời vô tận, lời an lạc, lời tịch tĩnh, lời tham tịch tĩnh, lời sân tịch tĩnh, lời si tịch tĩnh, lời phá ma.
Lời phá tà luận, tiếng phạm âm, tiếng Ca Lăng Tần Già, tiếng Đế Thích, tiếng Hải Triều, tiếng Câu Luân Xà, tiếng Khổng Tước mùa thu, tiếng Câu Chỉ La, tiếng chim Mạng Mạng, tiếng Nga Vương, tiếng Lộc Vương, tiếng đờn, tiếng trống, tiếng ốc, tiếng nhạc, tiếng người thích nghe, tiếng nhĩ căn thích, lời tăng pháp lành, lời câu nghĩa vô tận, lời hiệp chữ câu nghĩa.
Lời đúng thời, lời lược gọn, lời tri túc, lời điều các căn, lời bố thí trang nghiêm, lời giới luật thanh tịnh, lời cùng chung với đức nhẫn nhục, lời tinh tiến thần thông, lời lìa xa Dục Giới, lời đầy đủ trí huệ, lời từ, lời bi, lời hỉ, lời xả, lời nói pháp Tam Thừa, lời chẳng dứt tam bảo, lời giải thích ba tụ, lời giải thích tam thế, lời giải thích ba giải thoát, lời phân biệt Tứ Đế, lời tu tập, lời tán thán, lời Phật, lời Thánh, lời vô biên, lời vô hành.
Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu những lời nói như vậy, nên khẩu nghiệp Như Lai là tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi tám của Đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng:
Lời nói của Phật như tịnh châu
Thành tựu vô lượng các công đức
Tiếng Phật khắp cùng mười phương cõi
Nhất âm hay làm mọi loài hiểu
Phàm lời diễn nói chẳng tác niệm
Lại chẳng xem cảnh giới chúng tâm
Như Lai âm thanh như tiếng vang
Không nói không nghe cũng như vậy
Đại từ đại bi lời thanh tịnh
Vì chúng giải thích các loại pháp
Muốn cho chúng sanh được như Phật
Nên nói khẩu nghiệp hai mươi tám.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai ý nghiệp tùy trí nghiệp hành.
Tại sao, Đức Như Lai biết rõ tâm ý thức của tất cả chúng sanh, cũng chẳng theo ý theo duyên theo tham sân si, xa lìa dối lầm, xa lìa ngã ngã sở vô minh tối tăm, bình đẳng thanh tịnh không có biên tế như hu không, đây là Như Lai ý nghiệp tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi chín của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Tâm Như Lai chẳng thể lường được
Như dùng sợi lông cất núi lớn
Thường quán chúng sanh tâm duyên cảnh
Xa lìa các ma lìa phiền não
Như Lai Pháp Vương nói nghiệp lành
Để phá chúng sanh các nghiệp ác
Vì tịnh chúng sanh thân khẩu ý
Nghiệp hai mươi chín nay đã nói.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời quá khứ, trí ấy không có ngại cũng không có chướng.
Trí ấy thế nào?
Trí ấy biết vô lượng vô số Chư Phật quá khứ cùng với các Thế Giới của Chư Phật ấy, những là cỏ cây và số lượng chúng sanh, tâm cảnh của họ, các loại âm thanh ngôn ngữ của họ, cũng biết Chư Phật quá khứ ấy nói những pháp gì, có bao nhiêu chúng sanh chứng được Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát thừa.
Biết rõ Chư Phật quá khứ ấy thọ mạng dài ngắn, số đại chúng nhiều ít, các thứ danh tự, sự ăn uống ngồi nằm, biết rõ chúng sanh ấy những là căn giới ý giới pháp giới tâm giới hành giới, tâm họ thứ đệ sanh diệt xuất hiện ẩn mất.
Tất cả đều biết rõ như thiệt cho đến biết rõ số lượng, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật trí vô ngại cũng vô chướng
Nên biết rõ được vô lượng cõi
Biết rõ tất cả các Phật Sự
Chúng sanh các căn và pháp giới
Như Lai Pháp Vương biết quá khứ
Như xem trái cây trong bàn tay
Vì muốn chúng sanh được trí ấy
Phật nói nghiệp thứ ba mươi này.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời vị lai, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.
Trí ấy biết thế nào?
Trí ấy biết tất cả Thế Giới thuở vị lai, hoặc thành hoặc hoại, mấy kiếp hỏa tai, mấy kiếp thủy tai, mấy kiếp phong tai, bao nhiêu Phật Thế Giới, bao nhiêu Phật xuất thế, trong Thế Giới có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu Thanh Văn, bao nhiêu Duyên Giác.
Bao nhiêu Bồ Tát, cũng biết sự ăn uống hành động đi đứng ngồi nằm của Chư Phật ấy, bao nhiêu chúng sanh chứng Thanh Văn giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Duyên Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Chánh Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh tu tập các phẩm trợ đạo, tử bi hỉ xả, cũng biết rõ các chúng sanh thuở vị lai ấy bao nhiêu thứ đệ tâm sanh, tâm diệt.
Tất cả sự việc như vậy đều biệt rõ chân thật chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi mốt của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai biết rõ đời vị lai
Sự sanh diệt của tất cả pháp
Biết các Thế Giới và Chư Phật
Chúng sanh tâm thứ đệ sanh diệt
Lưu chuyển các đạo chứng Tam Thừa
Y báo chánh báo biết chân thật
Vì muốn đại chúng được trí này
Phật nói nghiệp thứ ba mươi mốt.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời hiện tại, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.
Trí ấy thế nào?
Như Lai biết rõ hiện tại mười phương các Thế Giới, số lượng Chư Phật Bồ Tát Duyên Giác Thanh Văn, những nhật nguyệt tinh tú cỏ cây vi trần địa thủy hỏa phong đại hải núi sông vườn rừng, các loại chúng sanh lông tóc hình sắc tâm ý thứ đệ sanh diệt ẩn mất.
Cũng biết chúng sanh địa ngục ngạ quỷ súc sanh hiện nghiệp quả báo ở đời bao lâu lúc nào giải thoát, biết rõ phiền não giới, chư căn giới, ý giới, pháp giới. Tất cả sự việc hiện tại mười phương trí Như Lai biết rõ chân thật, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi hai của Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai vô thượng chẳng nghĩ bàn
Không ai biết Phật cảnh sở duyên
Chỗ biết của Phật như hư không
Vô lượng vô biên không thể nói
Phật nói vi diệu đệ nhất nghĩa
Vì muốn chúng sanh được nghiệp Phật
Tự Tại Vương khéo hỏi Như Lai
Phật Thế Tôn đã tùy ý đáp.
Này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn có đủ ba mươi hai nghiệp như vậy thì có thể điều phục tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh nói các nghiệp ấy, mà thiệt thì Như Lai vô lượng nghiệp vô thượng không thể kể nói.
Này thiện nam tử! Nghiệp của Như Lai, tất cả thế gian chúng sanh chẳng suy nghĩ được, chẳng biết rõ được cũng chẳng tuyên nói được.
Nghiệp Như Lai ấy đều có thể bình đẳng biết khắp tất cả quốc độ như hư không.
Tại sao?
Vì mười phương Chư Phật đều bình đẳng vậy.
Này thiện nam tử! Chư Phật Như Lai quan sát chúng sanh cùng Thế Giới giải thoát Niết Bàn đều bình đẳng không sai khác. Đức Phật Thế Tôn quán pháp giới đều bình đẳng nhất vị rồi chuyển chánh pháp luân chẳng chuyển được.
Này thiện nam tử! Ví như người thợ ngọc biết rành các loại châu báu, ở nơi núi báu được một viên bảo châu mang về ngâm trong nước, ngâm nước xong vớt ra ngâm dấm, rồi ngâm nước đậu, ngâm rượu đắng, ngâm xong để trong các chất nước thuốc, sau đó dùng nĩ nhuyễn mài chà thành chân chánh thanh lưu ly châu.
Cũng vậy, vì biết chúng sanh giới chẳng sáng chẳng sạch nên Như Lai vì chúng sanh mà nói pháp vô thường khổ bất tịnh để phá tâm tham ưa sanh tử của họ.
Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ, lại vì chúng sanh nói pháp không vô tướng vô nguyện cho họ biết rõ chánh pháp của Phật.
Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ lại vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối tâm vô thượng bồ đề biết tất cả pháp ba đời thành đạo Bồ Đề, gọi là đại trân bảo vô thượng phước điền lành tốt.
Vì vậy nên biết nghiệp của Như Lai chẳng thể tư duy chẳng thể cân lường chẳng thể tuyên nói được.
Đức Như Lai có đủ ba mươi hai nghiệp, dầu biết thân Phật như hư không mà ở nơi Thế Giới thị hiện thân Phật và cũng thuyết pháp chẳng thể thuyết được.
Đức Như Lai đã dứt hẳn nhân duyên tất cả tâm nên biết rõ tâm giới của tất cả chúng sanh, cũng biết rõ cảnh giới của tất cả Bồ Tát.
Này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn chân thật nghiệp trọn chẳng đoạn tuyệt, thọ ký cho Bồ Tát. Đây gọi là nghiệp chân thật của Như Lai.
Lúc Đức Thế Tôn nói nghiệp Phật trên đây rồi, mười phương Thế Giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp nơi, vô lượng vô biên thứ hương thơm hoa đẹp từ trên không tuôn xuống.
Đại chúng hiện tại trong phường đình báu lớn cho đến hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhân nghe lời Đức Phật tuyên nói về nghiệp Như Lai, tất cà đều rất vui mừng.
Đại chúng lại đem các thứ Hương Hoa, Kỹ Nhạc, Bảo Tràng, Bảo Phan, Bảo Cái, cúng dường, Đức Phật.
Trong Pháp Hội lại có các chúng đem đủ loại vàng ngọc châu báu cùng những vật trang sức, như là tràng chuỗi thoa xuyến, những thanh Lưu Ly châu, Liên Hoa châu, Kim Sí Điểu châu, Diêm Phù bảo châu, Đế Thích bảo châu, hỏa châu, quang châu, vô lượng quan châu, vô lượng sắc châu, nhu nhuyến thanh tịnh châu, Kim Cương bảo châu và Bạch Chân châu.
Còn có đem các thứ hương quý như là hương bột, hương Chiên Đàn hòa với kim sa, hương Da Già La, hương Trầm Thủy, hương Huân Lục, hương Di Khư Đa, hương Ma La Bạt, còn rải các thứ hoa, những là hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Câu Tỳ Đà La, hoa Ba Lợi Chất Đa La, hoa Hỉ Lạc, hoa Sa La, hoa Đại Sa La, hoa Bách Diệp.
Hoa Thiên Diệp, hoa Nhiễu Diệp, hoa Đại Quang, hoa Hương, hoa Lạc Hương, hoa Lạc Kiến, hoa Vô Lượng Sắc, hoa Bất Định Sắc, các loại hoa sanh trong nước như là hoa Ưu Bát La, hoa Ba Đầu Ma, hoa Câu Vật Đầu, hoa Phân Đà Lợi các loại.
Các loại hoa trên đất như là hoa Bà Lợi Sư, hoa Ma Lê, hoa Tu Mạn Na, hoa Dục Kỳ, hoa Đàn Nội Già Lê, hoa A Đề Mục Đa Già, hoa Chiêm Bà, hoa A Thúc Ca, cũng cúng dường Đức Phật các loại kỹ nhạc, các thứ phan lọng.
Lúc bấy giờ Chư Bồ Tát đến từ Thập Phương Thế Giới đều thẳng lên hư không trên phường đình báu lớn rồi buông mình rơi xuống đất để cúng dường Đức Phật, thân Chư Bồ Tát ấy rơi xuống đất tan mất hóa ra lưới Thất Bảo trùm khắp trên phường đình, lại hiện thân các Ngài ở trong lưới báu ấy.
Lúc bấy giờ mười phương tất cả Chư Phật đều riêng sai một cây ba lợi đến phường đình dùng để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Do thấn lực Phật, mỗi mỗi cây ba lợi ấy đến trang nghiêm phường đình báu lớn.
Trong Pháp Hội có vô lượng chúng phát tâm vô thượng Chánh Giác, vô lượng chúng được Vô Sanh pháp Nhẫn.
Đức Thế Tôn đứng dậy ngắm nhìn hàng đại chúng như tượng vương nhìn mà tuyên lời rằng: Các thiện nam tử! Ai có thể thủ hộ các vật cúng dường này và cả phường đình báu lớn đây cho khỏi bị hủy hoại hư hao tổn thất, chờ đến Di Lặc thành vô thượng Chánh Giác rồi mười sáu năm sau sẽ cúng dường lên Đức Phật ấy và cũng gìn giữ để cúng dường năm trăm Đức Như Lai kế tiếp trong hiền kiếp.
Bấy giờ trong chúng hội có một Đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương liền từ chỗ ngồi dậy quỳ chắp tay bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có thể thủ hộ những vật cúng dường và phường đình báu lớn này chẳng cho hư không hủy hoại để chờ Di Lặc thành Phật được mười sáu năm sẽ cúng dường cho Đức Phật ấy và cũng thủ hộ cúng dường cho năm trăm Đức Phật kế tiếp trong hiền kiếp này.
Lúc ấy trong đại chúng có một Ma Vương hiệu là Thần Thông ở nước Tứ Thiên Hạ nói với Đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương rằng nay Ngài để những vật cúng dường và bảo phường đình này ở trong khí cụ gì để thủ hộ cho khỏi hư hao hủy hoại?
Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương Đại Bồ Tát nói: Này thiện nam tử! Phàm nói là khí cụ thì tánh nó là Vô thường, mà thân thể này của tôi luôn thường trụ không biến đổi. Nay Ngài nên nhìn kỹ thân của tôi.
Ma Vương thần thông nghe xong liền y theo lời bảo mà nhìn kỹ thân của Đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương, thấy trong rún có một Thế Giới tên là Thủy Vương Quang hiện tại có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Ưu Bát La, trong Thế Giới Thủy Vương Quang ấy có một bảo sơn lớn, Bảo Ưu Bát La Như Lai ở trong Đại Bảo Sơn ấy ngồi Kiết già cùng Chư Bồ Tát tuyên nói chánh pháp.
Thần thông Ma Vương thấy rõ rồi trong lòng rất lấy làm lạ mà khen ngợi, liền lạy Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương Đại Bồ Tát mà bạch rằng: Lành thay lành thay!
Bạch Đại Sĩ! Nay tôi mới biết là Ngài có khí cụ vi diệu có thể hộ trì được các vật cúng dường và đại bảo phường đình này khỏi bị hư hao hủy hoại.
Thần Thông Ma Vương lại đảnh lễ Đức Phật bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Từ trước tôi chưa từng thấy Đại Bồ Tát như vậy, cũng chưa từng được nghe pháp vi diệu như vậy, nên tôi muốn học pháp Thanh Văn nhập Niết Bàn.
Nay tôi được thấy oai thần lực của Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương Đại Bồ Tát tôi liền phát tâm vô thượng bồ đề.
Bạch Đức Thế Tôn! Giả sử trong hằng hà sa số kiếp thân tôi chịu khổ nơi địa ngục, rồi sau mới được thành đạo vô thượng, tôi quyết chẳng rời bỏ bồ đề tâm.
Đức Phật phán dạy: Lành thay lành thay!
Này thiện nam tử! Ông có thể phát tâm vô thượng bồ đề tốt như vậy, ông cũng sẽ được Vô lượng thần thông lực như vậy.
Lúc ấy trong Pháp Hội có một Đại Bồ Tát hiệu là Sư Tử Tràng nói với Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát rằng: Bạch Ngài, Đại Bồ Tát được môn Đà La Ni gì mà có thể thọ trì tất cả lời Chư Phật dạy, những chữ câu và nghĩa được diễn nói đều không cùng tận?
Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát nói: Bạch Ngài Sư Tử Tràng Đại Bồ Tát, có tám môn Đà La Ni mà Đại Bồ Tát nếu chứng được thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của Chư Phật và thuyết pháp chữ câu và nghĩa không có cùng tận.
Những gì là tám môn Đà La Ni?
Một là Tịnh Thanh Quang Minh Đà La Ni môn.
Hai là Vô Tận Khí Đà La Ni môn.
Ba là Vô Lượng Tế Đà La Ni môn.
Bốn là Đại Hải Đà La Ni môn.
Năm là Liên Hoa Đà La Ni môn.
Sáu là Nhập Vô Ngại Môn Đà La Ni môn.
Bảy là Tứ Vô Ngại Trí Đà La Ni môn.
Tám là Phật Trang Nghiêm Anh Lạc Đà La Ni môn.
Nếu có Đại Bồ Tát an trụ trong tám môn Đà La Ni này thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của Chư Phật và thuyết pháp chữ câu nghĩa đều không có cùng tận.
Sư Tử Tràng Đại Bồ Tát nói: Lành thay bạch Đại Sĩ! Xin Ngài nói rộng cho. Chư Bồ Tát nghe rồi sẽ được thọ trì tất cả Phật Pháp.
Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát nói: Này Ngài, xin lắng nghe kỹ tôi sẽ vì Ngài mà nói.
Môn Tịnh Thanh Quang Minh Đà La Ni ấy, nếu an trụ được thì Đại Bồ Tát có thể ở nơi chỗ vô lượng vô biên Chư Phật Thế Tôn mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức được, tứ đại thanh tịnh, do đây mà âm thanh vi diệu, lúc tuyên thuyết chánh pháp âm thanh ấy vang khắp một Phật Thế Giới.
Khắp hai Phật Thế Giới, khắp năm Phật Thế Giới, khắp mười Phật Thế Giới, khắp hai mươi ba mươi Phật Thế Giới, khắp bốn mươi năm mươi Phật Thế Giới, khắp trăm Phật Thế Giới, khắp ngàn Phật thế giói, cho đến khắp trăm ngàn vạn Phật Thế Giới không thể kể không thể đếm được.
Pháp được Đại Bồ Tát ấy nói ra đều được nghe khắp nơi. Lúc Đại Bồ Tát ấy thuyết pháp, pháp tòa sư tử được ngồi hoặc rộng một do tuần, hoặc lớn như núi Tu Di, rộng lớn như bảo tòa Phạm Thiên Vương.
Giả sử có mười phương vô lượng Chư Phật giảng tuyên đạo hóa Đại Bồ Tát này đều nghe được khắp hết và thọ trì chẳng quên sót, hiểu rành chữ câu và ý nghĩa. Đồng thời tự mình thuyết pháp và nghe Chư Phật thuyết pháp không có trở ngại cả hai sự việc.
Ở trong một chữ diễn nói tất cả pháp, đó là chữ A. Chữ A là đầu của các chữ. Lúc Đại Bồ Tát này nói chữ A liền có thể nói tất cả pháp. Chữ A có nghĩa là không có.
Không có ấy là các pháp không có căn, không có sanh, không có sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng, không có tạo tác, không có lai, không có khứ, không có trụ, không có tánh, không có xuất, không có hành, không có tăng, không có cao, không có giảm, không có chữ không có tác dụng, không có nguyện cầu, không có hí luận cũng không giác quán.
Không nói, không nghe, không ở, không vào, các pháp không có ngã, không có chúng sanh, không tịnh, không mạng, không tên, không chủ, không sĩ phu, không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không nhớ, không lường, không làm không dấu vết, không câu, không chữ, không ngại, không cùng chung, không theo mình, không theo người.
Không thâu, không phóng, không thủ, không xả, không số, không thân, không tịnh, không uế, không chuyển, không biến, không thọ nhận, không âm thanh, không tướng hình, không kiết gút, không nhơ, không cuồng, không lậu, không hữu, không che, không đục, không đối, cũng không có sắc thọ tưởng hành thức, không có nhân quả.
Không có ấm nhập giới, không có nhân duyên, không có cảnh giới, không có Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt, không có đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời gian, không quy về, không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không quên tập, không nhà cửa, không chi tiết.
Không lay động, không đứng ngừng, không bền chắc, không mỏng manh, không thấy được, không chạm được, không sáng, không tối, không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu, không quán huệ, không chứng không tu, không kiến, không văn, không giác, không trí, không xúc, không thúc.
Thưa Ngài Sư Tử Tràng! Đại Bồ Tát được Đà La Ni Tịnh Thanh Quang Minh như vậy thì ở một chữ có thể diễn nói tất cả pháp. Trong một chữ này nói vô lượng nghĩa không có sai lầm, chẳng hoại pháp giới, chẳng mất chữ nghĩa. Đại Bồ Tát được Đà La Ni Tịnh Thanh Quang Minh này thì thân khẩu và ý đều thanh tịnh cả.
Cử động đi ở chúng sanh thích thấy, đó là thân thanh tịnh. Pháp được diễn nói chúng sanh thích nghe đó là khẩu thanh tịnh. Tu tập tâm từ bi hỉ xả đó là ý thanh tịnh. Đại Bồ Tát được Đà La Ni này rồi thì có thể thanh tịnh hai bố thí, đó là tài thí và pháp thí.
Có thể thanh tịnh giới hạnh, thấy kẻ phá giới chẳng sanh tâm chê ghét.
Có thể thanh tịnh nhẫn nhục, thấy kẻ hại chúng sanh chẳng sanh lòng giận phiền.
Có thể thanh tịnh tinh tiến, tu hành pháp lành không hề thôi nghỉ.
Có thể thanh tịnh thiền định vì dứt kiêu mạn.
Có thể thanh tịnh trí huệ vì trừ vô minh.
Có thể thanh tịnh các nghiệp vì phá nhân ác bất thiện.
Có thể thanh tịnh nhãn căn vì được tam minh.
Có thể thanh tịnh nhĩ căn vì được Thiên Nhĩ nghe tiếng nói của Chư Phật.
Có thể thanh tịnh tỷ căn vì ngửi biết giới hương thanh tịnh của Chư Phật.
Có thể thanh tịnh thiệt căn vì chẳng tham chất vị Cam Lộ.
Có thể thanh tịnh thân căn vì được hóa thân.
Có thể thanh tịnh ý căn vì tư duy lành tốt vậy.
Có thể thanh tịnh hình sắc vì được ba mươi hai đại nhân tướng.
Có thể thanh tịnh âm thanh vì nói diệu pháp.
Có thể thanh tịnh hơi hương vì giới văn thí v.v... thanh tịnh.
Có thể thanh tịnh mùi vị vì được vị vô thượng.
Có thể thanh tịnh cảm xúc vì tu tập các tam muội vô thượng.
Có thể thanh tịnh pháp trần vì quán các pháp giới vô phân biệt.
Có thể thanh tịnh ác niệm vì chẳng quên sót.
Có thể thanh tịnh ý tưởng vì vĩnh viễn không hệ thuộc ca ma đảng.
Có thể thanh tịnh các hành vì quán sát các pháp giới thậm thâm vậy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ nơi Đà La Ni Tịnh Quang Minh này rồi theo âm thanh được nói vang đến, chỗ nào thì ánh sáng từ trong thân của Bồ Tát ấy cũng chiếu đến nơi ấy.
Này thiện nam tử! Đà La Ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận Khí Đà La Ni rồi thì diễn nói sắc vô thường chẳng thể cùng tận, nói sắc là khổ là vô ngã cũng chẳng thể cùng tận, nói sắc như bọt nước, như ảo như Trăng trong nước, như mộng, như vang, như bóng, như dương diệm, cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không có tánh, không có tướng là rỗng không cũng đều chẳng thể cùng tận.
Nói sắc không nói được chẳng thể nguyện cầu chẳng thể tạo tác là bất sanh bất diệt chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại chẳng phải tịnh uế, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải khứ lai, chẳng phải đối ngại, chẳng phải nhất nhị, chẳng phải chúng sanh, thọ mạng, trượng phu, chẳng phải tham sân si.
Chẳng phải hữu vô, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi tất cả cũng đều chẳng phải cùng tận, nói sắc chẳng phải đui điếc, chẳng phải quẻ thọt, chẳng phải cuồng loạn, chẳng phải cỏ cây gỗ đá, chẳng phải địa thủy hỏa phong, chẳng phải nhà cửa, chẳng phải thành quách, chẳng phải thôn lạc lớn, chẳng phải núi gò.
Chẳng phải vườn rừng, chẳng phải phương hướng, chẳng phải sắc hương vị xúc, chẳng phải tạo tác chẳng phải lãnh thọ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nghe, chẳng phải mười hai nhân duyên tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc chẳng phải thường chẳng phải đoạn.
Chẳng phải nhân chẳng phải ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, chẳng phải Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, chẳng phải đống dị, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịnh uế, chẳng phải bằng, chẳng phải lõm, tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Ba - Phẩm Lợi Dưỡng - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Con Rùa
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Phước điền
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Sáu Mươi Mốt - Pháp Hội Vô Tận ý Bồ Tát - Phần Chín
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Mười Hai - Phẩm Bốn Pháp điên đảo