Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Phẩm Khó Tin Hiểu - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI BỐN

PHẨM KHÓ TIN HIỂU  

PHẦN BA  

Bố thí Ba la mật đa đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bố thí Ba la mật đa đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của bố thí Ba la mật đa đời giữa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Tịnh Giới cho đến bát nhã Ba la mật đa đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa đời giữa. Pháp không nội đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không nội đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không nội đời giữa. Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời giữa. Chân như đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì chân như đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của chân như đời giữa. Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời giữa. Thánh đế khổ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Thánh đế khổ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế khổ đời giữa. Thánh đế tập, diệt, đạo đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Thánh đế tập, diệt, đạo đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo đời giữa. Bốn tịnh lự đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Bốn Tịnh Lự đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn tịnh lự đời giữa. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Bốn Vô Lượng, bốn định Vô Sắc đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc đời giữa. Tám giải thoát đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám giải thoát đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám giải thoát đời giữa. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời giữa. Bốn Niệm trụ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn niệm trụ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn niệm trụ đời giữa. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời giữa. Pháp môn giải thoát không đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát không đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát không đời giữa. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời giữa. Mười địa Bồ Tát đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười địa Bồ Tát đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười địa Bồ Tát đời giữa. Năm loại mắt đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì năm loại mắt đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của năm loại mắt đời giữa. Sáu phép thần thông đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sáu phép thần thông đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sáu phép thần thông đời giữa. Mười lực Phật đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười lực Phật đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười lực Phật đời giữa. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời giữa. Pháp không quên mất đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không quên mất đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không quên mất đời giữa. Tánh luôn luôn xả đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tánh luôn luôn xả đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tánh luôn luôn xả đời giữa. Trí nhất thiết đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí nhất thiết đời giữa. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời giữa. Tất cả pháp môn Đà La Ni đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Đà La Ni đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni đời giữa. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời giữa. Dự Lưu quả đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Dự Lưu quả đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của Dự Lưu quả đời giữa. Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời giữa. Quả vị Ðộc Giác đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị Ðộc Giác đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị Ðộc Giác đời giữa. Tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời giữa. Quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đời giữa.

Cụ thọ Này Thiện Hiện!

Lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn!

Có các Bổ đặc già la chẳng siêng năng tinh tấn, chưa trồng căn lành, đủ căn bất thiện, ác hữu chi phối, làm theo ma lực, biếng nhác tăng lên, tinh tấn giảm xuống, thất niệm, ác tuệ, nên đối với Bát Nhã Ba la mật đa này thật khó tin hiểu.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói!

Bổ đặc già la chẳng siêng tinh tấn, chưa trồng thiện căn, đủ căn bất thiện, ác hữu chi phối, làm theo ma lực, lười biếng tăng lên, tinh tấn giảm xuống, thất niệm, ác tuệ, nên đối với Bát Nhã Ba la mật đa này thật khó tin hiểu.

Vì sao?

Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh.

Vì sao?

Vì sắc thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là nhãn xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì nhãn xứ thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là sắc xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì sắc xứ thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là nhãn giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì nhãn giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Nhĩ giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là nhĩ giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì nhĩ giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Tỷ giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là tỷ giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tỷ giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Thiệt giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thiệt giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thiệt giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Thân giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thân giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thân giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Ý giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là ý giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì ý giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Pháp Giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Ðịa giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là địa giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì địa giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thuỷ hỏa phong không thức giới thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vô minh thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là vô minh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì vô minh thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh tức là quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh.

Vì sao?

Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần