Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Phẩm Khó Tin Hiểu - Phần Mười Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM BA MƯƠI BỐN
PHẨM KHÓ TIN HIỂU
PHẦN MƯỜI BA
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ngã thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hữu tình thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là hữu tình thanh tịnh.
Vì sao?
Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hữu tình thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là hữu tình thanh tịnh.
Vì sao?
Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Dòng sinh mạng thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Dòng sinh mạng thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự sanh thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự sanh thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự dưỡng dục thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự dưỡng dục thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự dưỡng dục thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự dưỡng dục thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự dưỡng dục thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự dưỡng dục thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sĩ phu thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sĩ phu thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sĩ phu thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sĩ phu thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sĩ phu thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sĩ phu thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Bổ đặc già la thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là Bổ đặc già la thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Bổ đặc già la thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Bổ đặc già la thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là Bổ đặc già la thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Bổ đặc già la thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ý sanh thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là ý sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ý sanh thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ý sanh thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là ý sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ý sanh thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nho đồng thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là nho đồng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì nho đồng thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nho đồng thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là nho đồng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì nho đồng thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tạo tác thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự tạo tác thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tạo tác thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tạo tác thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự tạo tác thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tạo tác thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự thọ nhận thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự thọ nhận thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự thọ nhận thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự thọ nhận thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự thọ nhận thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự thọ nhận thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tri thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự tri thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tri thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tri thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự tri thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tri thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự kiến thanh tịnh tức là bốn niệm trụ thanh tịnh. Bốn niệm trụ thanh tịnh tức là sự kiến thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự kiến thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự kiến thanh tịnh tức là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh tức là sự kiến thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự kiến thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ngã thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hữu tình thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là hữu tình thanh tịnh.
Vì sao?
Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hữu tình thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là hữu tình thanh tịnh.
Vì sao?
Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Dòng sinh mạng thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Dòng sinh mạng thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự sanh thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sự sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự sanh thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự dưỡng dục thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự dưỡng dục thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự dưỡng dục thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự dưỡng dục thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sự dưỡng dục thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự dưỡng dục thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sĩ phu thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sĩ phu thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sĩ phu thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sĩ phu thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sĩ phu thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sĩ phu thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Bổ đặc già la thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là Bổ đặc già la thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Bổ đặc già la thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Bổ đặc già la thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là Bổ đặc già la thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Bổ đặc già la thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ý sanh thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là ý sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ý sanh thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ý sanh thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là ý sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ý sanh thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nho đồng thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là nho đồng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì nho đồng thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nho đồng thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là nho đồng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì nho đồng thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tạo tác thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự tạo tác thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tạo tác thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tạo tác thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sự tạo tác thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tạo tác thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự thọ nhận thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự thọ nhận thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự thọ nhận thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự thọ nhận thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh thức sự thọ nhận thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự thọ nhận thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tri thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự tri thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tri thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tri thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sự tri thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tri thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự kiến thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Pháp môn giải thoát không thanh tịnh tức là sự kiến thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự kiến thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự kiến thanh tịnh tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh tức là sự kiến thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự kiến thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Hữu tình thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là hữu tình thanh tịnh.
Vì sao?
Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Dòng sinh mạng thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự sanh thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự dưỡng dục thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự dưỡng dục thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự dưỡng dục thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sĩ phu thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sĩ phu thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sĩ phu thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Bổ đặc già la thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là Bổ đặc già la thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Bổ đặc già la thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ý sanh thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là ý sanh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ý sanh thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Nho đồng thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là nho đồng thanh tịnh.
Vì sao?
Vì nho đồng thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tạo tác thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự tạo tác thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tạo tác thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự thọ nhận thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự thọ nhận thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự thọ nhận thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự tri thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự tri thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự tri thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự kiến thanh tịnh tức là mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Mười địa Bồ Tát thanh tịnh tức là sự kiến thanh tịnh.
Vì sao?
Vì sự kiến thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh tức là năm loại mắt thanh tịnh. Năm loại mắt thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với năm loại mắt thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ngã thanh tịnh tức là sáu phép thần thông thanh tịnh. Sáu phép thần thông thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba Mươi Hai - Pháp Hội Vô úy đức Bồ Tát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Chín - Phẩm Sa Môn - Phần Mười - Pankadhà
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nhãn Sanh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Vợ Trưởng Giả Pháp Chí
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Chín - Phẩm Sa Môn - Phần Một - Sa Môn