Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bốn Mươi Bảy - Phẩm Chân Như - Phần Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BỐN MƯƠI BẢY 

PHẨM CHÂN NHƯ  

PHẦN BỐN   

Này các Thiên Tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ pháp môn Tam Ma Địa mà tu hành, vì xả bỏ pháp môn Tam Ma Địa mà tu hành.

Vì nhiếp thủ pháp môn Đà La Ni mà tu hành, vì xả bỏ pháp môn Đà La Ni mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Bát Nhã Ba la mật đa, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng pháp không nội, cũng chẳng có thể chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo. 

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng chân như, cũng chẳng có thể chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn niệm trụ, cũng chẳng có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng Thánh đế khổ, cũng chẳng có thể chứng Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, cũng chẳng có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn giải thoát không, cũng chẳng có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, cũng chẳng có thể tu sáu phép thần thông.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn Tam Ma Địa, cũng chẳng có thể tu pháp môn Đà La Ni.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu mười lực Phật, cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu trí nhất thiết, cũng chẳng có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên Tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ mười lực Phật mà tu hành, vì xả bỏ mười lực Phật mà tu hành.

Vì nhiếp thủ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng mà tu hành, vì xả bỏ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Bát Nhã Ba la mật đa, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng pháp không nội, cũng chẳng có thể chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

 Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng chân như, cũng chẳng có thể chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn niệm trụ, cũng chẳng có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng Thánh đế khổ, cũng chẳng có thể chứng Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, cũng chẳng có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn giải thoát không, cũng chẳng có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, cũng chẳng có thể tu sáu phép thần thông.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn Tam Ma Địa, cũng chẳng có thể tu pháp môn Đà La Ni.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu mười lực Phật, cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu trí nhất thiết, cũng chẳng có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên Tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ quả Dự Lưu mà tu hành, vì xả bỏ quả Dự Lưu mà tu hành.

Vì nhiếp thủ quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà tu hành, vì xả bỏ quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Bát Nhã Ba la mật đa, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng pháp không nội, cũng chẳng có thể chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo. 

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng chân như, cũng chẳng có thể chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn niệm trụ, cũng chẳng có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng Thánh đế khổ, cũng chẳng có thể chứng Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, cũng chẳng có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn giải thoát không, cũng chẳng có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, cũng chẳng có thể tu sáu phép thần thông.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn Tam Ma Địa, cũng chẳng có thể tu pháp môn Đà La Ni.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu mười lực Phật, cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu trí nhất thiết, cũng chẳng có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên Tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ quả vị Độc Giác mà tu hành, vì xả bỏ quả vị Độc Giác mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng pháp không nội, cũng chẳng có thể chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng chân như, cũng chẳng có thể chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn niệm trụ, cũng chẳng có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng Thánh đế khổ, cũng chẳng có thể chứng Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, cũng chẳng có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn giải thoát không, cũng chẳng có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, cũng chẳng có thể tu sáu phép thần thông.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn Tam Ma Địa, cũng chẳng có thể tu pháp môn Đà La Ni.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu mười lực Phật, cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu trí nhất thiết, cũng chẳng có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên Tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ trí nhất thiết mà tu hành, vì xả bỏ trí nhất thiết mà tu hành.

Vì nhiếp thủ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu hành. Vì xả bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Bát Nhã Ba la mật đa, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng pháp không nội, cũng chẳng có thể chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo. 

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng chân như, cũng chẳng có thể chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn niệm trụ, cũng chẳng có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng Thánh đế khổ, cũng chẳng có thể chứng Thánh đế tập, diệt, đạo. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, cũng chẳng có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn giải thoát không, cũng chẳng có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, cũng chẳng có thể tu sáu phép thần thông. Bồ Tát ấy chẳng có thể tu pháp môn Tam Ma Địa, cũng chẳng có thể tu pháp môn Đà La Ni.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu mười lực Phật, cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.

Bồ Tát ấy chẳng có thể tu trí nhất thiết, cũng chẳng có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tất cả pháp. Pháp thâm diệu này tùy thuận tất cả pháp nào?

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận bát nhã Ba la mật đa, cũng tùy thuận tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận pháp không nội, cũng tùy thuận pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.

Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận chân như, cũng tùy thuận pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận bốn niệm trụ, cũng tùy thuận bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận Thánh đế khổ, cũng tùy thuận Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận bốn tịnh lự, cũng tùy thuận bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tám giải thoát, cũng tùy thuận tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận pháp môn giải thoát không, cũng tùy thuận pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận năm loại mắt, cũng tùy thuận sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận pháp môn Tam Ma Địa, cũng tùy thuận pháp môn Đà La Ni.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận mười lực Phật, cũng tùy thuận bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận trí nhất thiết, cũng tùy thuận trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này hoàn toàn không có chướng ngại.

Pháp thâm diệu này đối với pháp nào không chướng ngại?

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với sắc không chướng ngại. Đối với thọ, tưởng, hành, thức không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với nhãn xứ không chướng ngại. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với sắc xứ không chướng ngại. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với nhãn giới không chướng ngại. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với sắc giới không chướng ngại. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với nhãn thức giới không chướng ngại. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với nhãn xúc không chướng ngại. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chướng ngại. Đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với địa giới không chướng ngại. Đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với vô minh không chướng ngại. Đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với bố thí Ba la mật đa không chướng ngại. Đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với pháp không nội không chướng ngại. Đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với chân như không chướng ngại. Đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với bốn niệm trụ không chướng ngại. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với Thánh đế khổ không chướng ngại. Đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với bốn tịnh lự không chướng ngại. Đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với tám giải thoát không chướng ngại. Đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với pháp môn giải thoát không không chướng ngại. Đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với năm loại mắt không chướng ngại. Đối với sáu phép thần thông không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với pháp môn Tam Ma Địa không chướng ngại. Đối với pháp môn Đà La Ni không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với mười lực Phật không chướng ngại. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với quả Dự Lưu không chướng ngại. Đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với quả vị Độc Giác không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối với trí nhất thiết không chướng ngại. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này lấy không chướng ngại làm tướng.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì tánh của hư không bình đẳng, vì tánh chân như bình đẳng, vì tánh pháp giới bình đẳng, vì tánh của pháp tánh bình đẳng, vì tánh của tánh chẳng hư vọng bình đẳng, vì tánh của tánh chẳng đổi khác bình đẳng, vì tánh của tánh bình đẳng bình đẳng.

Vì tánh của tánh ly sanh bình đẳng, vì tánh của pháp định bình đẳng, vì tánh của pháp trụ bình đẳng, vì tánh của thật tế bình đẳng, vì tánh của cảnh giới hư không bình đẳng, vì tánh của cảnh giới bất tư nghì bình đẳng. Vì tánh của không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng. Vì tánh của vô tạo, vô tác bình đẳng. Vì của tánh vô nhiễm, vô tịnh bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này không sanh, không diệt.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì sắc không sanh, không diệt. Vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xứ không sanh, không diệt. Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì sắc xứ không sanh, không diệt. Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn giới không sanh, không diệt. Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì sắc giới không sanh, không diệt. Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn thức giới không sanh, không diệt. Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xúc không sanh, không diệt. Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt. Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì địa giới không sanh, không diệt. Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì vô minh không sanh, không diệt. Vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì Bố Thí Ba la mật đa không sanh, không diệt. Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì pháp không nội không sanh, không diệt. Vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.

Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì chân như Không sanh, không diệt. Vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ không sanh, không diệt. Vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì Thánh đế khổ không sanh, không diệt. Vì Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì bốn tịnh lự không sanh, không diệt. Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì tám giải thoát không sanh, không diệt. Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt. Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì năm loại mắt không sanh, không diệt. Vì sáu phép thần thông không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì pháp môn Tam Ma Địa không sanh, không diệt. Vì pháp môn Đà La Ni không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì mười lực Phật không sanh, không diệt. Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì quả Dự Lưu không sanh, không diệt. Vì quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì quả vị Độc Giác không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì trí nhất thiết không sanh, không diệt. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này hoàn toàn không có dấu vết.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của sắc chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của sắc xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của nhãn giới chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của sắc giới chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của nhãn thức giới chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của nhãn xúc chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của địa giới chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của vô minh chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của bố thí Ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của pháp không nội chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của chân như chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của pháp môn Tam Ma Địa chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của quả Dự Lưu chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của quả vị Độc Giác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy, các Thiên Tử Cõi Dục, Cõi Sắc lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh, là đệ tử chân chánh của Phật.

Vì sao?

Vì tất cả các pháp mà Thượng Tọa Thiện Hiện đã nói đều tương ưng với không.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo các Thiên Tử Cõi Dục, Cõi Sắc: Thiên Tử các ông nói Thiện Hiện ta do Như Lai sanh, là đệ tử chân chánh của Phật.

Tại sao Thiện Hiện do Như Lai sanh?

Đó là vì do chân như của Như Lai sanh.

Vì sao?

Vì chân như của Như Lai không đến, không đi, chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy, không đến, không đi. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai tức là chân như của tất cả pháp, chân như của tất cả pháp tức là chân như của Như Lai. Chân như như vậy là không có tánh chân như, cũng không không tánh chân như. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai thường trụ là tướng. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy, thường trụ là tướng.

Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai không đổi khác, không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy, không đổi khác, không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai không chướng ngại. Chân như của tất cả pháp cũng không chướng ngại. Hoặc chân như của Như Lai, hoặc chân như của tất cả pháp đều đồng một chân như, không hai, không khác, không tạo, không tác. Chân như như vậy là tướng chân như thường tại, không khi nào chẳng phải là tướng chân như.

Vì là tướng chân như thường tại, nên không khi nào chẳng phải là tướng chân như, không hai, không khác. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai đối với tất cả xứ không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy, đối với tất cả xứ không nhớ nghĩ, không phân biệt. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai không riêng, không khác, chẳng thể nắm bắt được. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy, không riêng, không khác, chẳng thể nắm bắt được. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, chân như của Như Lai chẳng lìa chân như của tất cả pháp. Chân như của tất cả pháp chẳng lìa chân như của Như Lai. Chân như như vậy là tướng chân như thường tại, không khi nào chẳng phải là tướng chân như. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh. Tuy nói là do sanh nhưng không do đâu sanh, vì chân như của Thiện Hiện chẳng khác Phật vậy.

Lại nữa, chân như của Như Lai chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Chân như của tất cả pháp cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Chân như của Thượng Tọa Thiện Hiện cũng vậy. Do đó nên nói Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

Lại nữa, vì chân như của quá khứ bình đẳng, nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của quá khứ bình đẳng. Vì chân như của vị lai bình đẳng, nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của vị lai bình đẳng. Vì chân như của hiện tại bình đẳng, nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của hiện tại bình đẳng. Hoặc chân như của quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của sắc bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của sắc bình đẳng. Vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của sắc bình đẳng, hoặc chân như của thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của nhãn xứ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhãn xứ bình đẳng. Vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của nhãn xứ bình đẳng, hoặc chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của sắc xứ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của sắc xứ bình đẳng. Vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của sắc xứ bình đẳng, hoặc chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của nhãn giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhãn giới bình đẳng. Vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của nhãn giới bình đẳng, hoặc chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của sắc giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của sắc giới bình đẳng. Vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của sắc giới bình đẳng, hoặc chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của nhãn thức giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhãn thức giới bình đẳng. Vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của nhãn thức giới bình đẳng, hoặc chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của nhãn xúc bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của nhãn xúc bình đẳng. Vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của nhãn xúc bình đẳng, hoặc chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bình đẳng. Vì chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bình đẳng, hoặc chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của địa giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của địa giới bình đẳng. Vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của địa giới bình đẳng, hoặc chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của vô minh bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của vô minh bình đẳng. Vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của hành cho đến chân như của lão tử bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của vô minh bình đẳng, hoặc chân như của hành cho đến chân như của lão tử bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của Bố Thí Ba la mật đa bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của Bố Thí Ba la mật đa bình đẳng. Vì chân như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của tịnh giới cho đến chân như của bát nhã Ba la mật đa bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của bố thí Ba la mật đa bình đẳng, hoặc chân như của tịnh giới cho đến chân như của bát nhã Ba la mật đa bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của pháp không nội bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của pháp không nội bình đẳng.

Vì chân như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của pháp không ngoại cho đến chân như của pháp không không tánh tự tánh bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của pháp không nội bình đẳng, hoặc chân như của pháp không ngoại cho đến chân như của pháp không không tánh tự tánh bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của chân như bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên các chân như bình đẳng. Vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của pháp giới cho đến chân như của cảnh giới bất tư nghì bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của chân như bình đẳng, hoặc chân như của pháp giới cho đến chân như của cảnh giới bất tư nghì bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của bốn niệm trụ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của bốn niệm trụ bình đẳng. Vì chân như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của bốn chánh đoạn cho đến chân như của tám chi Thánh đạo bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của bốn niệm trụ bình đẳng, hoặc chân như của bốn chánh đoạn cho đến chân như của tám chi Thánh đạo bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của Thánh đế khổ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của Thánh đế khổ bình đẳng. Vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của Thánh đế khổ bình đẳng, hoặc chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của bốn tịnh lự bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của bốn tịnh lự bình đẳng. Vì chân như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của bốn tịnh lự bình đẳng, hoặc chân như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của tám giải thoát bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của tám giải thoát bình đẳng. Vì chân như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của tám giải thoát bình đẳng, hoặc chân như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của pháp môn giải thoát không bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của pháp môn giải thoát không bình đẳng. Vì chân như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của pháp môn giải thoát không bình đẳng, hoặc chân như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của năm loại mắt bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của năm loại mắt bình đẳng. Vì chân như của sáu phép thần thông bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của sáu phép thần thông bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của năm loại mắt bình đẳng, hoặc chân như của sáu phép thần thông bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của pháp môn Tam Ma Địa bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của pháp môn Tam Ma Địa bình đẳng. Vì chân như của pháp môn Đà La Ni bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của pháp môn Đà La Ni bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của pháp môn Tam Ma Địa bình đẳng, hoặc chân như của nên pháp môn Đà La Ni bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của mười lực Phật bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của mười lực Phật bình đẳng.

Vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng.

Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của mười lực Phật bình đẳng, hoặc chân như của bốn điều không sợ cho đến chân như của mười tám Pháp Phật bất cộng bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của quả Dự Lưu bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của quả Dự Lưu bình đẳng. Vì chân như của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán bình đẳng.

Như vậy, hoặc chân như của quả Dự Lưu bình đẳng, hoặc chân như của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của quả vị Độc Giác bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của quả vị Độc Giác bình đẳng. Như vậy, hoặc chân như của quả vị Độc Giác bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Lại nữa, vì chân như của trí nhất thiết bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của trí nhất thiết bình đẳng. Vì chân như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng, nên chân như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng.

Như vậy, hoặc chân như của trí nhất thiết bình đẳng, hoặc chân như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng, hoặc chân như của Như Lai bình đẳng, đều cùng một chân như bình đẳng, không hai, không khác.

Này các Thiên Tử! Đại Bồ Tát hiện chứng chân như bình đẳng của tất cả pháp như vậy, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thượng Tọa Thiện Hiện đối với chân như này, có khả năng tin, hiểu sâu sắc. Do đó nên gọi là Thượng Tọa Thiện Hiện do Như Lai sanh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần