Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Học Bát Nhã - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM HAI MƯƠI NĂM

PHẨM HỌC BÁT NHÃ  

PHẦN BA  

Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Thánh đế khổ. Vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Thánh đế khổ nên chẳng học ở Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo nên chẳng học ở Thánh đế tập, diệt, đạo.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế khổ thấy cái không của Thánh đế khổ. Vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo thấy cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế khổ học ở cái không của Thánh đế khổ. Vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo học cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo.

Kiều Thi Ca! Vì vô minh và tánh của vô minh là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy vô minh. Vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy vô minh nên chẳng học ở vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nên chẳng học ở hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của vô minh thấy cái không của vô minh. Vì chẳng lẽ cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thấy cái không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của vô minh học ở cái không của vô minh. Vì chẳng lẽ cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não học cái không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Kiều Thi Ca! Vì cái không nội và tánh của cái không nội là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy cái không nội. Vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi.

Cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp.

Cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy cái không nội nên chẳng học ở cái không nội, chẳng thấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh nên chẳng học ở cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của cái không nội thấy cái không của cái không nội. Vì chẳng lẽ cái không của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh thấy cái không của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của cái không nội học ở cái không của cái không nội. Vì chẳng lẽ cái không của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh học cái không của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Kiều Thi Ca! Vì chân như và tánh của chân như là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy chân như. Vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy chân như nên chẳng học ở chân như, vì chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên chẳng học ở pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của chân như thấy cái không của chân như. Vì chẳng lẽ cái không của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thấy cái không của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của chân như học ở cái không của chân như. Vì chẳng lẽ cái không của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì học cái không của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Kiều Thi Ca! Vì bố thí Ba la mật đa và tánh của bố thí Ba la mật đa là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy bố thí Ba la mật đa. Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy bố thí Ba la mật đa nên chẳng học ở bố thí Ba la mật đa, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa nên chẳng học ở tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bố thí Ba la mật đa thấy cái không của bố thí Ba la mật đa. Vì chẳng lẽ cái không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa thấy cái không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bố thí Ba la mật đa học ở cái không của bố thí Ba la mật đa. Vì chẳng lẽ cái không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa học ở cái không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn tịnh lự. Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn tịnh lự nên chẳng học ở bốn tịnh lự, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc nên chẳng học ở bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bốn tịnh lự thấy cái không của bốn tịnh lự. Vì chẳng lẽ cái không của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc thấy cái không của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bốn tịnh lự học ở cái không của bốn tịnh lự. Vì chẳng lẽ cái không của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc học ở cái không của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc.

Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tám giải thoát. Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy tám giải thoát nên chẳng học ở tám giải thoát, chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên chẳng học ở tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của tám giải thoát thấy cái không của tám giải thoát. Vì chẳng lẽ cái không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thấy cái không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của tám giải thoát học ở cái không của tám giải thoát. Vì chẳng lẽ cái không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ học cái không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn niệm trụ. Vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn niệm trụ nên chẳng học ở bốn niệm trụ, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo nên chẳng học ở bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bốn niệm trụ thấy cái không của bốn niệm trụ. Vì chẳng lẽ cái không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo thấy cái không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của bốn niệm trụ học ở cái không của bốn niệm trụ. Vì chẳng lẽ cái không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo học cái không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp môn giải thoát không. Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp môn giải thoát không nên chẳng học ở pháp môn giải thoát không, chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên chẳng học ở pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát không thấy cái không của pháp môn giải thoát không. Vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thấy cái không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát không học ở cái không của pháp môn giải thoát không. Vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện học cái không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy năm loại mắt. Vì sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy năm loại mắt nên chẳng học ở năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông nên chẳng học ở sáu phép thần thông.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của năm loại mắt thấy cái không của năm loại mắt. Vì chẳng lẽ cái không của sáu phép thần thông thấy cái không của sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của năm loại mắt học ở cái không của năm loại mắt. Vì chẳng lẽ cái không của sáu phép thần thông học cái không của sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Vì mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy mười lực của Phật. Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy mười lực của Phật nên chẳng học ở mười lực của Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng nên chẳng học ở bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của mười lực Phật thấy cái không của mười lực của Phật. Vì chẳng lẽ cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng thấy cái không của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của mười lực Phật học ở cái không của mười lực Phật. Vì chẳng lẽ cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng học cái không của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.

Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp không quên mất. Vì tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tánh luôn luôn xả.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp không quên mất nên chẳng học ở pháp không quên mất, chẳng thấy tánh luôn luôn xả nên chẳng học ở tánh luôn luôn xả.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp không quên mất thấy cái không của pháp không quên mất. Vì chẳng lẽ cái không của tánh luôn luôn xả thấy cái không của tánh luôn luôn xả.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp không quên mất học ở cái không của pháp không quên mất. Vì chẳng lẽ cái không của tánh luôn luôn xả học cái không của tánh luôn luôn xả.

Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết và tánh của trí nhất thiết là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy trí nhất thiết. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy trí nhất thiết nên chẳng học ở trí nhất thiết, chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên chẳng học ở trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của trí nhất thiết thấy cái không của trí nhất thiết. Vì chẳng lẽ cái không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thấy cái không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của trí nhất thiết học ở cái không của trí nhất thiết. Vì chẳng lẽ cái không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng học cái không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà La Ni. Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà La Ni nên chẳng học ở tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam Ma Địa nên chẳng học ở tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni thấy cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni. Vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Tam Ma Địa thấy cái không của tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni học ở cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni. Vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Tam Ma Địa học cái không của tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Kiều Thi Ca! Vì Dự Lưu và tánh của Dự Lưu là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Dự Lưu. Vì Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán và tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Dự Lưu nên chẳng học ở Dự Lưu, chẳng thấy Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán nên chẳng học ở Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Dự Lưu thấy cái không của Dự Lưu. Vì chẳng lẽ cái không của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán thấy cái không của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Dự Lưu học ở cái không của Dự Lưu. Vì chẳng lẽ cái không của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán học cái không của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.

Kiều Thi Ca! Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả và tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả. Vì Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả và tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả nên chẳng học ở Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng thấy Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả nên chẳng học ở Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả thấy cái không của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả. Vì chẳng lẽ cái không của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả thấy cái không của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả học ở cái không của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả. Vì chẳng lẽ cái không của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả học cái không của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.

Kiều Thi Ca! Vì Độc Giác và tánh của Độc Giác là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Độc Giác. Vì Độc Giác hướng, Độc Giác quả và tánh của Độc Giác hướng, Độc Giác quả là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Độc Giác hướng, Độc Giác quả.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Độc Giác nên chẳng học ở Độc Giác, chẳng thấy Độc Giác hướng, Độc Giác quả nên chẳng học ở Độc Giác hướng, Độc Giác quả.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Độc Giác thấy cái không của Độc Giác. Vì chẳng lẽ cái không của Độc Giác hướng, Độc Giác quả thấy cái không của Độc Giác hướng, Độc Giác quả.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Độc Giác học ở cái không của Độc Giác. Vì chẳng lẽ cái không của Độc Giác hướng, Độc Giác quả học cái không của Độc Giác hướng, Độc Giác quả.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát và tánh của Đại Bồ Tát là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Đại Bồ Tát. Vì Tam Miệu Tam Phật Đà và tánh của Tam Miệu Tam Phật Đà là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Tam Miệu Tam Phật Đà.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Đại Bồ Tát nên chẳng học ở Đại Bồ Tát, chẳng thấy Tam Miệu Tam Phật Đà nên chẳng học ở Tam Miệu Tam Phật Đà.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Đại Bồ Tát thấy cái không của Đại Bồ Tát. Vì chẳng lẽ cái không của Tam Miệu Tam Phật Đà thấy cái không của Tam Miệu Tam Phật Đà.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Đại Bồ Tát học ở cái không của Đại Bồ Tát. Vì chẳng lẽ cái không của Tam Miệu Tam Phật Đà học cái không của Tam Miệu Tam Phật Đà.

Kiều Thi Ca! Vì pháp của Đại Bồ Tát và tánh của pháp của Đại Bồ Tát là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ Tát. Vì quả vị giác ngộ cao tột và tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ Tát nên chẳng học ở pháp của Đại Bồ Tát, chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột nên chẳng học ở quả vị giác ngộ cao tột.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp của Đại Bồ Tát thấy cái không của pháp của Đại Bồ Tát. Vì chẳng lẽ cái không của quả vị giác ngộ cao tột thấy cái không của quả vị giác ngộ cao tột.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của pháp của Đại Bồ Tát học ở cái không của pháp của Đại Bồ Tát. Vì chẳng lẽ cái không của quả vị giác ngộ cao tột học cái không của quả vị giác ngộ cao tột.

Kiều Thi Ca! Vì Thanh Văn thừa và tánh của Thanh Văn thừa là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Thanh Văn thừa. Vì Ðộc giác thừa, vô thượng thừa và tánh của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Ðộc giác thừa, vô thượng thừa.

Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy Thanh Văn thừa nên chẳng học ở Thanh Văn thừa, chẳng thấy Ðộc giác thừa, vô thượng thừa nên chẳng học ở Ðộc giác thừa, vô thượng thừa.

Vì sao?

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Thanh Văn thừa thấy cái không của Thanh Văn thừa. Vì chẳng lẽ cái không của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa thấy cái không của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa.

Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của Thanh Văn thừa học ở cái không của Thanh Văn thừa. Vì chẳng lẽ cái không của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa học cái không của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng học ở cái không tức là Đại Bồ Tát ấy đã học ở cái không.

Vì sao?

Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của sắc. Chẳng học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức tức là Đại Bồ Tát ấy đã học ở cái không của sắc, đã học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao?

Vì không có hai phần.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần