Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba - Phẩm Thiện Hiện - Phần Hai Mươi
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI THỨ BA
PHẨM BA
PHẨM THIỆN HIỆN
PHẦN HAI MƯƠI
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu như nói ngã v.v… hoàn toàn không sanh, thì chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.
Thưa Tôn Giả Xá Lợi Tử! Các pháp, tự tánh hoàn toàn không hòa hợp.
Vì sao?
Vì sự hòa hợp có pháp tự tánh không.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào tự tánh đều không hòa hợp?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn tự tánh đều không hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn tự tánh cũng đều không hòa hợp.
Như vậy, cho đến Thanh Văn thừa tự tánh đều không hòa hợp. Ðộc giác thừa, đại thừa tự tánh cũng đều không hòa hợp.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường, cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì nếu các pháp chẳng phải thường thì tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào chẳng phải thường cũng không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải thường cũng không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải thường cũng không tan rã.
Như vậy, cho đến Thanh Văn thừa chẳng phải thường cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa chẳng phải thường cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải thường thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải vui cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì nếu pháp chẳng phải vui thì tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào chẳng phải vui cũng không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Sắc uẩn chẳng phải vui cũng không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải vui cũng không tan rã.
Như vậy cho đến Thanh Văn thừa chẳng phải vui cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa chẳng phải vui cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải vui thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải ngã cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì nếu pháp chẳng phải ngã thì tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào chẳng phải ngã cũng không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải ngã cũng không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải ngã cũng không tan rã.
Như vậy cho đến Thanh Văn thừa chẳng phải ngã cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa chẳng phải ngã cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải ngã thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp tịch tĩnh cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì pháp tịch tĩnh tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử lại hỏi: Pháp tịch tĩnh nào không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn tịch tĩnh không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh không tan rã. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa tịch tĩnh cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa tịch tĩnh cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì pháp tịch tĩnh là không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì pháp viễn ly tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào viễn ly không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn viễn ly không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn viễn ly không tan rã. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa viễn ly cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa viễn ly cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì pháp viễn ly là không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì nếu pháp là không, vô tướng, vô nguyện thì tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì nếu pháp là không, vô tướng, vô nguyện là không tự tánh. Nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã.
Vì sao?
Vì nếu pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi thì tánh không chấm dứt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Ðộc giác thừa, đại thừa là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi là không tự tánh. Nếu không tự tánh thì không chấm dứt.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp nào là chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Vì sao?
Vì bản tánh nó là vậy. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Vì sao?
Vì bản tánh nó là vậy. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Vì sao?
Vì bản tánh nó là vậy. Ðộc giác thừa, đại thừa cũng chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Vì sao?
Vì bản tánh nó là vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nói tóm lại: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu ký, pháp vô ký, pháp hữu tội, pháp vô tội, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp nhiễm, pháp không nhiễm, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh, pháp sanh tử, pháp Niết Bàn, pháp hữu vi, pháp vô vi. Tất cả pháp như vậy đều chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.
Vì sao?
Vì bản tánh nó là vậy.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh.
Như vậy cho đến những Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa nào hoàn toàn không sanh?
Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả sắc cho đến thức đều không sanh.
Vì sao?
Vì bản tánh của sắc cho đến thức đều không, không tạo tác, không sanh khởi.
Vì sao?
Vì pháp không, tác giả bất khả đắc. Như vậy cho đến bản tánh của tất cả Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa đều không sanh.
Vì sao?
Vì bản tánh của tất cả Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa đều không, không tạo tác, không sanh khởi.
Vì sao?
Vì pháp không, tác giả bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh. Như vậy cho đến những Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa nào hoàn toàn không sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa?
Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc cho đến thức là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể thành lập là sanh, diệt, trụ, dị.
Do nhân duyên này nên nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức.
Vì sao?
Vì không chẳng phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Như vậy cho đến bản tánh của Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không thì không thể thành lập sanh, trụ, dị, diệt.
Do nhân duyên này nên nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa.
Vì sao?
Vì không chẳng phải là Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói, làm sao con dùng bát nhã Ba la mật đa hoàn toàn không sanh để dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ Tát hoàn toàn không sanh?
Xá Lợi Tử! Hoàn toàn không sanh tức là bát nhã Ba la mật đa. Bát nhã Ba la mật đa tức là hoàn toàn không sanh.
Vì sao?
Vì hoàn toàn không sanh cùng với bát nhã Ba la mật đa không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Hoàn toàn không sanh tức là Đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát tức là hoàn toàn không sanh.
Vì sao?
Vì hoàn toàn không sanh cùng với Đại Bồ Tát cũng không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Con đâu dùng bát nhã Ba la mật đa hoàn toàn không sanh để dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ Tát hoàn toàn không sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói, nếu lìa các pháp hoàn toàn không sanh thì cũng không có Đại Bồ Tát hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Xá Lợi Tử! Khi các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có bát nhã Ba la mật đa sâu xa, cũng không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có Đại Bồ Tát.
Vì sao?
Vì pháp hoàn toàn không sanh, bát nhã Ba la mật đa, Đại Bồ Tát đều không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Khi các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có sắc cho đến thức.
Vì sao?
Vì pháp hoàn toàn không sanh, sắc cho đến thức đều không hai, không hai phần. Như vậy cho đến, khi các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa.
Vì sao?
Vì pháp hoàn toàn không sanh, Thanh Văn, Ðộc giác, đại thừa đều không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu lìa các pháp hoàn toàn không sanh thì cũng không có Đại Bồ Tát hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi: Do duyên gì mà nói, nếu Đại Bồ Tát nào nghe thuyết như vậy mà tâm không chìm đắm, không ưu sầu, sợ hãi, tâm kia cũng không kinh hãi, không hoảng hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ Tát này có thể hành bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Khi các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa, không thấy các pháp có ngộ, có dụng. Còn quán các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bóng dáng, như quáng nắng, như quáng mắt, như việc huyễn hóa, như thành Tầm hương, chỉ hiện ra như là có mà không thật. Đại Bồ Tát nghe thuyết bản tánh các pháp đều không, liền vui mừng hớn hở, trong tâm tin tưởng, hỷ lạc sâu xa.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu Đại Bồ Tát nào nghe thuyết như thế, tâm không chìm đắm, không ưu sầu, sợ hãi, nơi tâm không kinh hãi, không hoảng hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ Tát này có thể hành bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa và quán sát các pháp, thì khi đó Đại Bồ Tát đối với sắc cho đến thức đều vô sở đắc, không thọ lãnh, không chấp thủ, không an trụ, không đắm trước, cũng không thành lập là sắc uẩn cho đến thức uẩn.
Đối với nhãn xứ cho đến ý xứ, đối với sắc xứ cho đến pháp xứ, đối với nhãn giới cho đến ý giới, đối với sắc giới cho đến pháp giới, đối với nhãn thức giới cho đến ý thức giới, đối với nhãn xúc cho đến ý xúc.
Đối với với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với địa giới cho đến thức giới, đối với nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, đối với vô minh cho đến lão tử cũng lại như vậy.
Khi ấy, Đại Bồ Tát đối với bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa đều vô sở đắc, không thọ lãnh, không chấp thủ, không an trụ, không đắm trước, cũng không thành lập là bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa.
Ðối với pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Đối với Thánh Đế Khổ cho đến Thánh Đế đạo. Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.
Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc. Đối với tám giải thoát, chín định thứ đệ. Đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ðối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.
Đối với Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa. Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông. Đối với mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa. Đối với các Đại Bồ Tát hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật. Đối với chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Đối với cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng lại như vậy.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì khi Đại Bồ Tát này hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, không thấy sắc uẩn cho đến thức uẩn. Như vậy cho đến không thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì tánh không của sắc, không sanh, không diệt. Tánh không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt. Như vậy cho đến tánh không của trí nhất thiết không sanh, không diệt. Tánh không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt.
Bạch Thế Tôn! Sắc không sanh, không diệt tức chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết không sanh, không diệt tức chẳng phải trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì sắc cho đến thức cùng không sanh, không diệt cũng không hai, không hai phần. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng không sanh, không diệt cũng không hai, không hai phần.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì pháp không sanh, không diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn! Sắc không hai tức chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không hai tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết không hai tức chẳng phải trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn! Sắc thuộc về pháp không hai. Thọ, tưởng, hành, thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết thuộc về pháp không hai. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện: Theo lời Tôn Giả nói, nếu khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, thì quán sát các pháp.
Vậy thế nào là Đại Bồ Tát?
Thế nào là bát nhã Ba la mật đa?
Thế nào là quán sát các pháp?
Thiện Hiện đáp: Theo lời Tôn Giả hỏi: Sao gọi là Đại Bồ Tát.
Xá Lợi Tử! Vì muốn lợi lạc cho các loài hữu tình và cần cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, nên gọi là Bồ Tát. Đầy đủ sự hiểu biết như thật, tuy biết rõ khắp tướng tất cả pháp mà không bị chấp trước, nên gọi là Đại Ma Ha Tát.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì sao Đại Bồ Tát đầy đủ sự hiểu biết như thật, tuy biết rõ khắp tướng tất cả pháp nhưng không bị chấp trước?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát tuy như thật biết tướng tất cả sắc mà không bị chấp trước. Tuy như thật biết tướng tất cả thọ, tưởng, hành, thức mà không bị chấp trước. Như vậy cho đến, như thật biết tướng tất cả trí nhất thiết mà không bị chấp trước. Tuy như thật biết tướng tất cả trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà không bị chấp trước.
Xá Lợi Tử hỏi: Những gì gọi là tướng tất cả pháp?
Thiện Hiện đáp: Do các tướng trạng của hành được biểu thị như vậy. Nên biết các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là trong, là ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi, những pháp này gọi là tướng tất cả pháp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi sao gọi là bát nhã Ba la mật đa?
Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng vi diệu, đối với tất cả pháp có thể như thật hiểu biết sự xa lìa những gì đã viễn ly, nên gọi là bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử hỏi: Ở đây, đối với các pháp nào mà có thể viễn ly?
Thiện Hiện đáp: Ở đây, đối với các uẩn, các xứ, các giới, các pháp duyên khởi đều nên viễn ly, nên gọi là bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng vi diệu, đối với tất cả pháp có thể như thật hiểu biết sự xa lìa những gì đã đạt được, nên gọi là bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử hỏi: Ở đây, đối với pháp nào mà có thể viễn ly những gì đã đạt được?
Thiện Hiện đáp: Ở đây, đối với bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa đều có thể viễn ly những gì đã đạt được. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều có thể viễn ly những gì đã đạt được, nên gọi là bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói là bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Theo lời Tôn Giả hỏi tại sao phải quán sát các pháp.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, quán sát sắc cho đến thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh.
Chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải không tịch tĩnh, chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa.
Như vậy cho đến quán sát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không.
Chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải không tịch tĩnh, chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa.
Xá Lợi Tử! Ðây gọi là quán sát các pháp.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa phải nên quán sát các pháp như vậy.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện: Do duyên gì mà Tôn Giả lại nói: Sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc cho đến thức, sắc cho đến thức là tánh không. Trong tánh không này không sanh, không diệt, cũng không sắc cho đến thức. Do đó, nên nói sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tánh không. Trong tánh không này không sanh, không diệt, cũng không trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, nên nói trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Xá Lợi Tử lại hỏi: Do duyên gì mà Tôn Giả lại nói: Sắc cho đến thức không hai, tức là chẳng phải sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai, tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Hoặc sắc hoặc không hai, cho đến hoặc thức hoặc không hai. Như vậy cho đến, hoặc trí nhất thiết hoặc không hai. Hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc không hai. Như vậy tất cả chẳng hợp, chẳng tan, không sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, gọi là vô tướng.
Do nghĩa đó nên tôi nói: Sắc cho đến thức không hai, tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai, tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Xá Lợi Tử hỏi: Do duyên gì mà Tôn Giả lại nói: Sắc cho đến thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng khác, không sanh, không diệt. Không sanh, không diệt, chẳng khác sắc cho đến thức. Vậy, sắc cho đến thức tức là không sanh, không diệt. Không sanh, không diệt tức là sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khác, không sanh, không diệt. Không sanh, không diệt, chẳng khác trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vậy, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là không sanh, không diệt. Không sanh, không diệt tức là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Do đó tôi nói: Sắc cho đến thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Ba Mươi Bốn - Phẩm ái Dục - Thí Dụ Sáu Mươi
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Bốn Mươi Mốt - Ngay Thẳng Dứt Trừ Dục Vọng
Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội - Phần Hai Mươi Năm
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Hai - Kinh Pháp Cú - Chương Mười Sáu - Phẩm hỷ ái
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bảy - Phẩm Tam Giả
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Chín - Phẩm đẳng Pháp - Phần Hai