Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Bảy - Phẩm Tứ Tướng - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM BẢY

PHẨM TỨ TƯỚNG  

PHẦN MỘT  

Đức Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát:

Vị Đại Bồ Tát phân biệt khai thị Đại Bát Niết Bàn có bốn tướng nghĩa:

Một là tự chánh.

Hai là chánh tha.

Ba là hay tùy vấn đáp.

Bốn là khéo hiểu nghĩa nhân duyên.

Thế nào là tự chánh?

Nếu Đức Như Lai thấy các nhân duyên mà có chỗ đáng dạy bảo.

Như có Tỳ Kheo thấy cụm lửa lớn bèn nói rằng: Thà rằng tôi tự ôm lấy cụm lửa này, trọn chẳng dám ở nơi chỗ Đức Như Lai giảng thuyết mười hai phần Kinh và tạng bí mật, mà hủy báng là của Ma Ba Tuần nói chứ không phải Phật.

Thà lấy dao bén cắt đứt lưỡi mình, không bao giờ nói Như Lai, Pháp và Tăng là vô thường. Hoặc nghe người khác nói như vậy tôi cũng không tin nhận mà còn thương xót cho kẻ ấy.

Như Lai, Pháp và Tăng chẳng thể nghĩ bàn, nên thọ trì như vậy. Tự xem thân mình như cụm lửa. Đây gọi là tự chánh.

Thế nào là chánh tha?

Lúc nọ Phật đang thuyết pháp, có một người nữ vào lễ Phật rồi ngồi qua một bên.

Đức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi rằng: Có phải nàng vì quá thương con, mà mớm cho con ăn nhiều chất bơ, rồi không biết có tiêu hoá hay không tiêu hoá?

Người nữ liền bạch Phật: Lạ lùng thay! Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của con.

Bạch Thế Tôn! Sớm mai này tiện nữ cho con ăn nhiều chất bơ, lòng tiện nữ sợ rằng không tiêu hoá được, nó sẽ phải bệnh. Ngưỡng mong Đức Như Lai chỉ dạy cho.

Phật dạy: Con nàng ăn thức ấy đã tiêu hoá tốt, nó sẽ được khoẻ mạnh.

Người nữ nghe Đức Phật nói, thời vui mừng hớ hở và thốt lời rằng: Vì Đức Như Lai nói đúng như thiệt nên con vui mừng. Đức Thế Tôn vì muốn điều phục các chúng sanh, mà khéo phân biệt nói tiêu hay chẳng tiêu, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường.

Nếu Phật nói thường trước, các đệ tử sẽ cho rằng pháp này đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo, vì hàng Thanh Văn đệ tử sẽ chẳng tiêu được pháp thường trụ, nên Như Lai trước dạy pháp khổ, vô thường.

Khi mà hàng Thanh Văn đệ tử đã đầy đủ công đức, đủ sức tu tập Kinh Pháp đại thừa, Như Lai ở Kinh này nói sáu vị:

Một là khổ, vị chua.

Hai là vô thường, vị mặn.

Ba là vô ngã, vị đắng.

Bốn là lạc, vị ngọt.

Năm là ngã, vị cay.

Sáu là thường, vị lạt.

Trong thế gian kia có ba vị: Vô thường, vô ngã, và khổ, phiền não làm củi, trí huệ làm lửa, do các nhân duyên đó mà thành cơm Niết Bàn tức là thường, lạc và ngã, làm cho các đệ tử đều được nếm mùi ngọt ngon.

Phật lại bảo người nữ rằng: Nếu nàng có sự duyên muốn đến xứ khác, thời phải đuổi đứa con trai hung ác ra khỏi nhà, rồi đem gia nghiệp giao cho đứa con trai hiền lành.

Người nữ bạch Phật rằng: Thiệt đúng như lời Đức Thế Tôn dạy, gia nghiệp nên giao cho đứa con hiền, chớ chẳng nên giao cho đứa con dữ.

Phật nói: Như Lai cũng vậy, lúc nhập Niết Bàn, đem tạng pháp vô thượng phó chúc cho các vị Bồ Tát, chớ không giao cho hàng Thanh Văn, vì hàng Thanh Văn tưởng là Như Lai thiệt diệt độ. Còn các vị Bồ Tát thời nhận rằng Như Lai thường trụ không biến đổi.

Mà quả thiệt Như Lai không có diệt độ. Như lúc nàng xa nhà chưa trở về, đứa con ác kia bèn nói là nàng đã chết mất rồi, còn đứa con hiền vẫn tin tưởng là nàng còn sống. Mà chính thiệt thời nàng còn sống. Nếu có chúng sanh nào nhận rằng Phật là thường trụ không biến đổi, phải biết nhà kẻ ấy thời là có Phật.

Đây gọi là Chánh Tha.

Thế nào là Hay Tùy Vấn Đáp?

Nếu có người đến hỏi Phật rằng: Tôi phải làm thế nào không mất tiền của mà được gọi là Đàn Việt đại bố thí?

Phật dạy: Đem tôi trai tớ gái bố thí cho những bậc Sa Môn, Bà La Môn thiểu dục tri túc chẳng nhận chẳng chứa các vật bất tịnh.

Đem người nữ thí cho vị tu phạm hạnh.

Đem rượu thịt thí cho người đã dứt rượu thịt.

Đem thực phẩm phi thời thí cho người không ăn phi thời.

Đem đồ trang sức thí cho người không trang sức.

Bố thí như vậy rất có danh tiếng, mà của tiền khỏi mất hào ly.

Đây gọi là Hay Tùy Vấn Đáp.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Với người ăn thịt chẳng nên đem thịt đến cho. Vì con thấy người không ăn thịt được công đức lớn.

Phật khen: Lành thay! Lành thay! Nay ông có thể khéo biết ý của Như Lai. Bồ Tát Hộ Pháp phải như vậy.

Này Ca Diếp! Bắt đầu từ ngày nay trở đi Như Lai không cho phép hàng Thanh Văn đệ tử ăn thịt, nếu đàn việt đem đến dưng thí, phải xem thịt ấy như thịt con mình.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao Đức Như Lai không cho phép ăn thịt?

Phật dạy: Này Ca Diếp! Luận về người ăn thịt thời dứt mất giống đại từ.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Duyên cớ gì ngày trước Đức Như Lai cho phép hàng Tỳ Kheo ăn ba thứ tịnh nhục?

Phật dạy: Này Ca Diếp! Ba thứ tịnh nhục ấy chỉ là theo việc mà tạm chế thôi.

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch: Bạch Thế Tôn! Duyên cớ gì mà mười thứ bất tịnh nhẫn đến chín thứ thanh tịnh, Như Lai lại chẳng cho phép?

Phật nói: Cũng là nhân nơi sự mà lần lượt chế. Nên biết chính là nghĩa đoạn nhục hiện nay.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Cớ sao Như Lai khen ngợi ngư nhục là món ăn ngon?

Phật dạy: Như Lai cũng chẳng nói loài ngư nhục là món ăn ngon, mà Như Lai vẫn nói mía, đường, gạo, tất cả thứ lúa, bắp, sữa, bơ, dầu, là những thức ăn ngon. Dầu rằng Như Lai nói được chứa các thứ y phục, mà đều phải hoại sắc, huống lại tham ưa nơi vị ngư nhục kia.

Ca Diếp lại bạch Phật: Đức Như Lai nếu chế không được ăn ngư nhục, thời những thứ sữa, bơ, dầu, v.v... và các thứ y phục Kiều Xa Gia, đồ bằng da thú, ngọc ngà, bồn chậu bằng vàng bạc, cũng đều chẳng nên dùng.

Phật dạy: Này Ca Diếp! Chẳng nên có kiến chấp đồng với bọn lõa thể ngoại đạo kia. Bao nhiêu giới cấm của Như Lai chế ra đều có dị ý. Vì dị ý nên cho ăn ba thứ tịnh nhục. Vì dị ý nên cấm ăn mười thứ thịt. Vì dị ý nên cấm tất cả thứ thịt đều không được ăn, dầu là thịt của con vật tự chết.

Này Ca Diếp! Từ nay Như Lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả thứ thịt.

Này Ca Diếp! Người mà ăn thịt, hoặc đi đứng nằm ngồi chúng sanh nào nghe đến hơi thịt thời kinh sợ. Ví như người ở gần sư tử, đi đến đâu, mọi người nghe mùi hôi của sư tử đều kinh sợ. Như người ăn tỏi, không ai dám gần người ấy vì tanh mùi tỏi.

Kẻ ăn thịt cũng vậy, tất cả chúng sanh nghe hơi thịt, thảy đều kinh sợ, nghĩ đến sự chết, các loài cá trạnh, muôn thú cùng chim chóc, đều chạy tránh xa, đều có quan niệm rằng người ấy là kẻ hại ta.

Vì thế nên Bồ Tát không ăn thịt, vì độ chúng sanh mà thị hiện ăn thịt. Dầu thị hiện ăn thịt mà thật ra thời không có ăn.

Này Ca Diếp! Hàng Bồ Tát này còn không ăn những thức ăn thanh tịnh, huống lại ăn thịt. Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, các bậc Tứ Quả Thánh Nhân đều lần lượt nhập Niết Bàn.

Sau khi chánh pháp diệt, trong thời Tượng Pháp, sẽ có các Tỳ Kheo in tuồng trì luật, ít đọc tụng Kinh, tham ưa ăn uống, lo bồi bổ thân thể, y phục mặc trên thân thô xấu hôi dơ, hình dung tiều tụy không có oai đức, chăn nuôi bò dê vác củi gánh cỏ, tóc râu để dài, đầu mặc Cà Sa mà như thợ săn, dầu ngó xuống đi chậm rãi mà như mèo rình chuột.

Thường tự xướng rằng ta chứng được quả A La Hán, mang nhiều bệnh khổ nằm lăn trên phẩn uế, ngoài thời hiện ra tướng hiền thiện, trong thời đầy lòng tham sân như Bà La Môn, thọ phép câm, thiệt chẳng phải Sa Môn mà hiện tướng Sa Môn, tà kiến xí thạnh, chê bai chánh pháp.

Những người như vậy phá hoại giới luật, chánh hạnh oai nghi của Như Lai chế, và quả giải thoát của Như Lai nói. Họ rời pháp thanh tịnh và làm hư hoại giáo pháp thậm thâm bí mật. Họ theo ý riêng, nói ngược với Kinh luật rằng Đức Phật cho phép chúng tôi ăn thịt. Họ đều tự xưng là Sa Môn Thích Tử.

Này Ca Diếp! Bấy giờ lại có các hàng Sa Môn chứa thóc, nhận lấy thịt cá, tay tự nấu ăn, cầm xách bình dầu ăn, cùng giày dép bàng da và lọng báu, thân cận Quốc Vương, quan lớn, nhà giàu sang, xem tướng, coi sao, siêng học nghề thuốc, chứa nuôi tôi tớ, vàng bạc bảy báu, các thứ dưa trái, học tập các nghề: Nghề vẽ, nghề nắn, làm sách dạy học, gieo trồng, chú thuật, chế thuốc, đờn ca xướng hát, hương hoa trang điểm, cờ bạc, học các nghề thợ.

Nếu có Tỳ Kheo nào hay tránh lìa các việc ác như trên, nên nói người ấy thật là đệ tử của Như Lai.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nhân người khác giúp mà sống.

Lúc khất thực, nếu đặng món ăn lộn với thịt, phải làm cách nào để ăn đúng với pháp thanh tịnh?

Phật dạy: Này Ca Diếp! Nên lấy nước rửa sạch thịt rồi hãy ăn. Nếu đồ đựng bị thịt làm dơ, chỉ làm cho không có vị thịt thời cho phép được dùng không tội.

Nếu thấy trong thức ăn có nhiều thịt thời không được nhận. Tất cả thứ thịt đều không được ăn. Người ăn thịt thời phải tội.

Nay Như Lai xuống điều chế đoạn nhục như vậy, nếu giảng rộng thời không thể hết. Giờ Niết Bàn gần đến phải nói lược.

Đây gọi là hay tùy vấn đáp.

Này Ca Diếp! Thế nào là khéo hiểu nghĩa nhân duyên?

Như có bốn bộ chúng đến hỏi Như Lai rằng: Những nghĩa như vậy, thuở Đức Như Lai mới ra đời, cớ sao chẳng vì Vua Ba Tư Nặc nói pháp môn nghĩa lý thâm diệu, hoặc có lúc nói thâm, có lúc nói thiển, hoặc gọi là phạm, hoặc gọi là không phạm, thế nào gọi là đọa?

Thế nào gọi là luật?

Thế nào là Ba La Đề Mộc Xoa?

Phật dạy: Ba La Đề Mộc Xoa gọi là tri túc, thành tựu oai nghi, không cất chứa, cũng gọi là tịnh mạng. Đọa đó gọi là bốn ác thú, và lại đọa đó là đọa nơi địa ngục, nhẫn A tỳ, luận về chậm mau thời hơn nơi mưa to.

Người nghe sợ hãi bèn giữ chặt cấm giới không phạm oai nghi, tu tập tri túc, chẳng thọ lấy tất cả vật bất tịnh. Và lại đọa là thêm lớn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Vì những nghĩa ấy nên gọi là đọa.

Ba La Đề Mộc Xoa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân, khẩu, và ý. Luật là các giới, oai nghi, nghĩa hay trong các Kinh thâm diệu, ngăn thọ tất cả vật bất tịnh, và nhân duyên bất tịnh, cũng ngăn bốn trọng tội, mười ba tội tăng tàn, hai tội bất định, ba mươi tội xả đọa, chín mươi tội đơn đọa, bốn pháp hối quá, các pháp học, bảy pháp diệt tranh.

Hoặc có người phá tất cả giới, nghĩa là bốn pháp trọng nhẫn đến bảy pháp diệt tránh. Hoặc có người chê bai chánh pháp, những Kinh Điển thậm thâm, và hạng hoàn toàn nhất xiển đề.

Những người trên đây tự nói mình thông minh nhiều trí, che dấu tất cả những tội nặng nhẹ, che dấu điều xấu ác như rùa dấu cả sáu chi.

Vì che dấu mãi không chịu sám hối nên tội lỗi càng lớn thêm lần. Như Lai biết như vậy nên lần lượt mà chế giới, chẳng đồng thời chế cả thảy được.

Bấy giờ có người đến hỏi: Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai từ lâu đã biết trước những sự ấy, sao không chế trước, phải chăng Đức Thế Tôn muốn để chúng sanh mắc tội đọa địa ngục ư?

Ví như có nhóm người muốn đến xứ khác, quên đường, đi lạc, mà vẫn không tự biết là lạc đường, lại không gặp ai để hỏi là phải hay không phải. Cũng vậy, chúng sanh mê tối nơi Phật Pháp chẳng thấy con đường chánh chân.

Đáng lẽ Đức Như Lai nên trước dạy đạo chân chánh. Bảo các Tỳ Kheo này là phạm giới, này là trì giới, phải chế giới như vậy.

Vì Đức Như Lai là bậc chánh giác chân thật thấy rõ đạo chân chánh. Chỉ có Đức Như Lai là đấng Trời trong các Trời, hay nói Pháp Thập Thiện công đức tăng thượng và nghĩa vị của pháp ấy. Thế nên khải thỉnh Đức Thế Tôn chế giới trước.

Phật nói: Này Thiện Nam Tử, nếu ông đã nói rằng Đức Như Lai hay vì chúng sanh mà dạy pháp thập thiện công đức tăng thượng, thế thời Như Lai xem các chúng sanh như La Hầu La, sao ông lại nạn rằng phải chăng Như Lai muốn chúng sanh phải đọa địa ngục! Như Lai thấy một người có nhân duyên đọa A Tỳ Địa Ngục, còn vì người ấy mà trụ một kiếp, hoặc không đầy một kiếp.

Như Lai có lòng đại từ bi đối với chúng sanh, đâu có cớ gì lại phỉnh gạt kẻ mà Như Lai đã xem như con ruột, làm cho nó bị sa vào địa ngục!

Này Thiện Nam Tử! Như người vá áo, thấy áo có lỗ rách vậy sau mới vá. Cũng vậy, thấy chúng sanh có nhân duyên sa vào A Tỳ Địa Ngục, Như Lai bèn dùng giới lành mà vá đó.

Ví như Vua Chuyển Luân trước dạy nhân dân mười nghiệp lành, về sau có người làm ác, Vua bèn theo mỗi sự mà dứt ác lần lần, khi sự ác đã dứt rồi, pháp luật của nhà Vua tự hành trong dân chúng.

Cũng vậy, Như Lai dầu có thuyết pháp mà không được chế luật trước, phải do nơi Tỳ Kheo làm phi pháp, mới theo sự mà chế lần lần. Những người thích chánh pháp, tu hành theo lời dạy của Như Lai, hạng người này mới có thể thấy Pháp Thân của Như Lai.

Như luân bửu của Vua Chuyển Luân không thể nghĩ bàn. Như Lai, Pháp và Tăng cũng không thể nghĩ bàn. Người hay thuyết pháp và người nghe pháp cũng không thể nghĩ bàn. Đây gọi là khéo hiểu nghĩa nhân duyên.

Bồ Tát phân biệt khai thị nghĩa của bốn điều như vậy, đây là nghĩa nhân duyên trong đại thừa Đại Niết Bàn.

Lại còn có nghĩa thế này: Tự chánh là được Đại Bát Niết Bàn đây. Chánh Tha là Như Lai vì Tỳ Kheo mà nói rằng Như Lai thường còn không biến đổi.

Tùy vấn đáp là, này Ca Diếp! Nhân ông hỏi mà Như Lai mới được dịp vì đại chúng giảng nói nghĩa lý thậm thâm vi diệu trên đây. Nghĩa nhân duyên là, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không hiểu được nghĩa rất sâu như vậy, chẳng nghe chữ y do ba điểm mà thành, giải thoát cùng Niết Bàn và Ma Ha Bát Nhã thành tạng bí mật.

Nay Như Lai ở nơi đại hội đây xiển dương phân biệt, khai phát huệ nhãn cho hàng Thanh Văn.

Giả sử có người nói rằng bốn sự như vậy là một, thế nào chẳng phải hư vọng ư?

Thời nên gạn trở lại rằng Hư Không đây, không chỗ có, không ngại, không động, bốn sự như vậy có gì là khác.

Đâu gọi là hư vọng được!

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các câu như vậy chính là một nghĩa, đó là nghĩa không. Tự chánh, chánh tha, hay tùy vấn đáp và hiểu nghĩa nhân duyên, cũng lại như vậy, đồng là đại Niết Bàn cả.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát:

Nếu có người nói thế này: Như Lai vô thường.

Biết là vô thường, vì như lời Phật dạy diệt các phiền não gọi là Niết Bàn, cũng như lửa tắt thời không chỗ có, dứt các phiền não gọi là Niết Bàn cũng lại như vậy, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư?

Lại như Phật dạy, rời các cõi hữu lậu, bèn gọi là Niết Bàn, trong Niết Bàn đây không có các cõi hữu lậu, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư?

Như cái áo hư rách hết, chẳng còn gọi là món vật. Cũng vậy, Niết Bàn dứt các phiền não chẳng gọi là vật gì.

Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư?

Đức Phật cũng dạy: Ly dục tịch diệt gọi là Niết Bàn, như người bị chém đứt đầu thời không còn có đầu, cũng vậy, ly dục tịch diệt rỗng trống, không chỗ có nên gọi là Niết Bàn.

Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư?

Phật từng dạy rằng:

Như sắt nướng đỏ

Đập văng mạt lửa

Văng ra liền tắt,

Chẳng biết ở đâu!

Được chánh giải thoát.

Cũng lại như vậy.

Đã lìa dâm dục,

Các cõi hữu lậu.

Được quả vô động,

Không rõ đến đâu!

Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi?

Này Ca Diếp! Nếu ai hỏi gạn như vậy, gọi là lời gạn tà. Ông cũng chẳng nên suy nghĩ rằng tánh Như Lai là diệt tận.

Này Ca Diếp! Dứt hết phiền não không còn gọi là vật, vì đã trọn rốt ráo hẵn, thế nên gọi là thường. Câu này tịch tịnh không có gì hơn. Dứt hết các tướng không có thừa sót.

Câu đây trắng sạch thường trụ không thối chuyển. Thế nên Niết Bàn gọi là thường trụ. Như Lai thường trụ không biến đổi cũng lại như vậy.

Mạt lửa để dụ phiền não, văng ra liền tắt không biết ở đâu, để chỉ Như Lai đã dứt phiền não, chẳng ở trong năm loài. Thế nên Như Lai là pháp thường trụ không có biến đổi.

Này Ca Diếp! Chánh pháp là chỗ tôn thờ của Chư Phật, nên Như Lai cung kính cúng dường. Vì pháp là thường trụ nên Chư Phật cũng thường trụ.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Nếu lửa phiền não tắt, Như Lai cũng tắt, thế thời Như Lai không có chổ thường trụ, như mạt sắt kia, mất ánh lửa đỏ rồi chẳng biết văng đến đâu.

Như Lai phiền não cũng vậy, diệt rồi thời vô thường. Lại như trên thanh sắt kia, hơi nóng và màu đỏ tắt rồi thời không còn có, Như Lai cũng vậy diệt rồi thời vô thường. Diệt lửa phiền não bèn nhập Niết Bàn, nên biết Như Lai tức là vô thường.

Phật nói: Này Ca Diếp! Thanh sắt là nói các phàm phu. Người phàm dầu diệt phiền não, diệt rồi sanh lại, nên gọi là vô thường. Như Lai chẳng phải như vậy, diệt rồi không còn sanh lại nên gọi là thường.

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch: Như nơi thanh sắt, màu lửa đỏ đã tắt, đem thanh sắt để lại trong lửa, thời màu đỏ sẽ sanh lại. Nếu như vậy, Như Lai lẽ ra sanh phiền não lại, nếu phiền não sanh trở lại bèn là vô thường.

Phật nói: Này Ca Diếp! Ông không nên nói Như Lai vô thường, vì Như Lai là thường trụ. Như đốt gỗ, khi gỗ hết lửa tắt thời còn tro, phiền não diệt rồi bèn có Niết Bàn. Các điều dụ như áo hư, chém đầu, lọ vỡ cũng như vậy.

Này Ca Diếp! Như sắt nguội có thể làm nóng lại. Như Lai không phải như vậy, dứt phiền não rồi rốt ráo thanh lương, lửa phiền não chẳng còn sanh trở lại. Vô lượng chúng sanh như thanh sắt kia Như Lai dùng lửa mạnh trí tuệ đốt sắt kiết sử phiền não của chúng sanh.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Lành thay! Lành thay! Con nay thật biết rõ chư Phật là thường trụ.

Phật nói: Này Ca Diếp! Ví như Thánh Vương vốn ở trong cung, hoặc có lúc dạo chơi nơi vườn. Dầu lúc ấy Vua không có ở giữa đám cung phi, cũng chẳng được nói là Vua đã chết.

Cũng vậy, Như Lai dầu nhập vào trong Niết Bàn không hiện nơi cõi Diêm Phù, chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não vào nơi Niết Bàn an vui, dạo chơi vui vẻ nơi các vườn hoa chánh giác.

Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi:

Như Đức Phật đã dạy: Từ lâu Như Lai đã vượt khỏi biển phiền não.

Duyên cớ gì lại cùng Gia Du Đà La sanh La Hầu La?

Do cớ đây mà biết rằng Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não. Cúi xin Như Lai nói về nhân duyên đó.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Ông chẳng nên nói Như Lai từ lâu đã vượt khỏi biển cả phiền não, duyên cớ gì lại cùng Gia Du Đà La sanh La Hầu La, vì cớ đây nên biết Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não.

Này Ca Diếp! Đại Niết Bàn đây hay kiến lập sự nghĩa to lớn. Nay các ông nên chí tâm lắng nghe, rồi rộng vì người mà giảng thuyết, chớ sanh lòng nghi ngờ.

Nếu có vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn, có thể đem núi Tu Di cao rộng để vào trong vỏ hột đình lịch. Các loài ở tại núi Tu Di không bị chật hẹp, vẫn y như thường, cũng không có quan niệm gì khác, chỉ có người đáng được độ mới thấy vị Bồ Tát ấy đem núi Tu Di để vào vỏ hột đình lịch, rồi đem để lại chỗ cũ.

Này Ca Diếp! Lại có vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn, có thể đem cả cõi Đại Thiên để vào vỏ hột đình lịch, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm này, ngoài ra tất cả chúng sanh đều không hay biết cũng không thấy chật hẹp, vẫn y như cũ. Cho đến đem cõi Đại Thiên để vào lỗ chân lông cũng như vậy.

Lại có vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn ngắt lấy nhiều Thế Giới ở mười phương để nơi đầu mũi kim, như ghim lá táo, rồi ném để nơi Thế Giới khác.

Những chúng sanh trong các Thế Giới bị ném đó không hay không biết, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm này, và cũng thấy Bồ Tát đem Thế Giới đã ném để lại chỗ cũ.

Lại có vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn, bức lấy các Thế Giới ở mười phương để trên bàn tay mặt, rồi ném vụt qua khỏi vô lượng Thế Giới khác.

Cũng có vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn đem vô lượng Thế Giới ở mười phương để vào trong thân mình, hoặc để vào trong một vi trần, vẫn không chật hẹp.

Chúng sanh trong các cõi ấy không bị bức ngộp, cũng chẳng hay chẳng biết, chỉ có người đáng được độ mới thấy biết việc làm này, và cũng thấy Bồ Tát đem những Thế Giới để lại chỗ cũ.

Này Ca Diếp! Vị Đại Bồ Tát trụ đại Niết Bàn thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, vì thế nên gọi là Đại Bát Niết Bàn. Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được.

Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?

Này Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại Niết Bàn, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong Cõi Đại Thiên trăm ức Mặt Trời, Mặt Trăng, trăm ức Diêm Phù Đề này, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều.

Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập Niết Bàn, mà chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.

Này Ca Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma Gia sanh ra, vừa sanh liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: Trong hàng Trời, người, A tu la, ta là bậc Tôn Thượng hơn cả. Cha mẹ và Trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên đây từ vô lượng kiếp.

Thân của Như Lai tức là Pháp Thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hiệp thành.

Vì thuận cách sanh của chúng sanh mà thị hiện làm đứa trẻ.

Đi qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng cho chúng sanh.

Đi qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân này là thân cuối cùng không còn sanh tử nữa.

Đi qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi.

Đi qua hướng Đông bảy bước là thị hiện làm Đạo Sư cho chúng sanh.

Đi qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị hiện dứt diệt các thứ phiền não và bốn loài ma, mà thành đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Đi lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm ô nhiễm, như hư không.

Đi xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn.

Nơi Diêm Phù Đề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu.

Kỳ thiệt, tất cả Trời, Người, Ma Vương, Sa Môn, Bà La Môn, không một ai có thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi.

Vì muốn tuỳ thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc.

Cha mẹ đem ta đến miếu thờ Trời, ra mắt Đại Tự Thiên. Lúc Đại Tự Thiên thấy Như Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên.

Từ lâu xa vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa cách vào Miếu Trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gian mà thị hiện như vậy.

Diêm Phù Đề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.

Lại lấy các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gian mà thị hiện việc như vậy.

Rồi vào học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy.

Xem khắp cả ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy thuận thế gian mà thị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Cõi Diêm Phù Đề, tùy thuận thế gian mà thị hiện làm Thái Tử, mọi người đều thấy Như Lai là Thái Tử con trai lớn Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục. Kỳ thiệt trong vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi.

Nhà tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị Diêm Phù Đề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm bậc Pháp Vương.

Thị hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bệnh, chết cùng vị Sa Môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái Tử Sĩ Đạt Đa mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia hành đạo rồi.

Thị hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La Hán được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A La Hán rồi.

Vì muốn độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi Đạo Tràng dưới cội Bồ Đề hàng phục Ma Quân.

Đại chúng đều cho rằng Như Lai mới thành đạo, hàng phục Ma Quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng phục Ma Quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện như vậy.

Như Lai lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.

Lại thị hiện thọ thực phẩm của người dâng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai đều không có sự đói khát.

Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng, rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v... mọi người đều cho rằng Như Lai có các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy, tay chân trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm Ưu bát la. Đại chúng cho rằng Như Lai là nhân loại, mà thiệt thời Như Lai không phải nhân loại.

Lại thị hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giũ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng cần đến cái y ấy.

Này Ca Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập Niết Bàn tại Diêm Phù Đề này. Kỳ thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn, mà chúng sanh cho rằng Như Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi.

Này Ca Diếp! Đại Niết Bàn là Pháp Giới của Phật Như Lai. Như Lai thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật. Nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.

Này Ca Diếp! Diêm Phù Đề có lúc Như Lai thị hiện chẳng giữ giới cấm, phạm tứ trọng tội, nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai giữ chặt cấm giới chẳng một mảy thiếu xót. Có lúc thị hiện làm gã nhất xiển đề, nhưng thiệt ra không phải nhất xiển đề.

Làm gì có nhất xiển đề mà thành bậc Vô Thượng Chánh Giác! Có lúc thị hiện phá hoà hiệp Tăng, có lúc thị hiện hộ trì chánh pháp, mọi người đều phải kinh quái. Có lúc thị hiện làm Ma Vương Ba Tuần, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đã lìa ma sự, trong sạch không nhiễm như hoa sen.

Có lúc thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái.

Và cũng vì thương xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy.

Lại thị hiện làm Phạm Thiên Vương để cho người thờ Phạm Thiên vào trong chánh pháp, nhẫn đến thị hiện các thân Trời khắp các miếu Trời cũng vì mục đích ấy.

Nhưng thiệt ra Như Lai không phải Phạm Thiên, không phải thân Trời. Có lúc thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng Như Lai trong sạch không nhiễm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục.

Lại thị hiện vào Nhà Thanh y, để giáo hóa hạng nô tỳ cho chúng nó được trụ nơi chánh pháp.

Lại thị hiện làm Bác Sĩ để dạy học trò, thị hiện chơi bài bạc để độ hạng người bài bạc, thị hiện thân chim thứu để độ loài thứu, lại thị hiện làm trưởng giả để an lập mọi người trụ nơi chánh pháp, thị hiện làm Vua, làm quan, để dìu dắt nhân dân tu chánh pháp.

Lại thị hiện tật dịch tại nơi Diêm Phù Đề, rồi trước thí thuốc cho bệnh nhân, sau giảng dạy đạo pháp.

Lại thị hiện cơ cẩn tai, trước bố thí cơm áo, sau tuyên truyền diệu pháp.

Lại thị hiện đao binh tai, rồi thuyết diệu pháp.

Lại thị hiện vì hạng chấp thường mà giảng pháp vô thường, vì hạng chấp lạc mà giảng pháp khổ, vì hạng chấp ngã mà giảng pháp vô ngã, vì hạng chấp tịnh mà giảng pháp bất tịnh.

Vì người tham chấp ba cõi, mà thuyết pháp cho họ xa lìa ba cõi, vì độ chúng sanh mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng, trồng cây pháp dược vô thượng để thay cây phiền não, diện nói chánh pháp để cứu bọn ngoại đạo tà kiến.

Dầu thị hiện làm thầy chúng sanh, nhưng Như Lai trọn không có quan niệm là Thầy. Đức Như Lai chánh giác an trụ Đại Bát Niết Bàn như vậy, nên gọi là thường trụ không biến đổi.

Cũng như thị hiện ở Diêm Phù Đề, ở Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu, nhẫn đến ở khắp Cõi Đại Thiên, Như Lai đều thị hiện như vậy. Như Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng. Vì lẽ ấy nên gọi là Đại Bát Niết Bàn.

Nếu có vị Đại Bồ Tát an trụ Đại Bát Niết Bàn như vậy, thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hóa như trên, mà trọn không có chút chướng ngại cùng e sợ.

Này Ca Diếp! Do nhân duyên trên đây, ông chẳng nên nói rằng La Hầu La là con trai của Phật, vì từ vô lượng kiếp. Như Lai đã lìa hẳn dục nhiệm, nên Như Lai gọi thường trụ không biến đổi.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật:

Như lời Phật nói: Như ngọn đèn đã tắt thời không có phương sở. Cũng vậy, Như Lai diệt độ rồi thời không phương sở.

Thế nào Như Lai gọi là thường trụ?

Phật nói: Này Ca Diếp! Ví như người đời thắp đèn dầu, theo số dầu còn thời ngọn đèn cháy, khi dầu hết thời ngọn đèn tắt, ngọn đèn tắt dụ cho lửa phiền não dứt. Ngọn đèn tắt mà bình đèn vẫn còn. Cũng vậy, phiền não dầu dứt mà Như Lai Pháp Thân thường còn.

Này Ca Diếp! Ngọn đèn cùng bình đèn có cùng tắt dứt cả không?

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn, không ạ! Tuy không cùng tắt dứt cả, nhưng là vô thường. Nếu đem Pháp Thân dụ với bình đèn, thời Pháp Thân cũng vô thường.

Phật nói: Này Ca Diếp! Ông không nên nạn như vậy. Đồ vật thế gian là vô thường, Như Lai không phải vô thường. Trong tất cả Pháp Niết Bàn là thường, Như Lai tức Niết Bàn nên gọi là thường.

Này Ca Diếp! Nói đèn tắt đó, là nói Niết Bàn của bậc A La Hán chứng, vì A La Hán dứt tham ái phiền não nên dụ như đèn tắt. Bậc A Na Hàm gọi là có tham, vì có tham nên chẳng được gọi là đồng với đèn tắt. Do nghĩa ấy nên ngày trước Như Lai nói dụ như đèn tắt, chớ chẳng phải đại Niết Bàn đồng với đèn tắt.

Bậc A Na Hàm chẳng còn lại thọ thân trong ba cõi nữa, chẳng còn lại thọ thân hôi nhơ, thân trùng, thân ăn uống, thân độc khổ, nên gọi là A Na Hàm. Nếu còn thọ thân thời gọi là Na Hàm, không còn thọ thân mới gọi là A Na Hàm.

Nếu còn khứ lai thời gọi là Na Hàm, không còn khứ lai mới gọi là A Na Hàm.

Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy Chư Phật Thế Tôn có tạng bí mật!

Nghĩa này không phải. Vì Chư Phật Thế Tôn chỉ có mật ngữ mà không có mật tạng. Như nhà ảo thuật điều khiển người máy. Mọi người dầu thấy người máy co duỗi cúi ngửa, nhưng chẳng biết bộ phận trong thế nào. Phật Pháp không phải như vậy, Phật Pháp làm cho chúng sanh đều hiểu đều biết.

Thế sao lại bảo rằng Chư Phật Thế Tôn tôn có tạng bí mật?

Phật khen: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói. Như Lai thiệt không có tạng bí mật. Như trăng tròn giữa đêm thu, Trời trong không mây mù, mọi người ai cũng thấy rõ vầng trăng sáng.

Lời của Như Lai cũng khai phát hiển lộ rõ ràng, kẻ ngu kia tự không hiểu rồi cho là tạng bí mật. Người trí suốt thấu thời không gọi là tạng.

Này Ca Diếp! Ví như có người để dành vàng bạc đến số ức triệu, vì lòng bỏn xẻn nên chẳng ban ơn bố thí cho kẻ nghèo cùng, chứa của như vậy mới gọi là dấu kín.

Như Lai thời không phải thế, từ vô lượng kiếp chứa để vô lượng diệu pháp, lòng không bỏn xẻn, thường đem ban bố cho mọi loài chúng sanh, đâu có thể gọi là Như Lai bí tạng được.

Như có người tật nguyền, hoặc một mắt, cụt tay, què chân, vì hổ thẹn mà không cho người thấy, vì thế nên gọi là núp kín.

Như Lai thời không phải thế, bao nhiêu chánh pháp đầy đủ không thiếu đều cho người thấy cả nên pháp của Như Lai không gọi là bí tạng được.

Như người nghèo thiếu nợ nhiều, vì sợ chủ nợ đòi mà ẩn trốn, nên gọi là trốn kín. Như Lai thời không phải thế, Như Lai không có nợ chúng sanh về pháp thế gian.

Dầu đối với chúng sanh có nợ xuất thế, nhưng cũng chẳng ẩn mặt, vì Như Lai luôn xem chúng sanh như con đẻ, mà thường diễn thuyết pháp nghĩa vô thượng.

Như trưởng giả giàu có nhiều của, chỉ có một người con trai, trưởng giả rất mến yêu con, bao nhiêu tiền của châu báu đều chỉ cho con biết. Cũng vậy, Như Lai xem chúng sanh đồng là con một.

Như người đời vì nam căn, nữ căn xấu xí nên dùng y phục để che đậy nên gọi là phúc tàng. Như Lai không phải thế, đã dứt hẳn thứ căn ấy, vì không căn nên không chỗ phúc tàng.

Như dòng Bà La Môn có những điều luận nói, trọn không muốn cho người trong dòng Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà nghe biết, vì trong các luận điều của họ có chỗ lỗi ác.

Chánh Pháp của Như Lai thời không phải như vậy, tất cả đều là lành là phải, vì thế nên chẳng được gọi là bí tạng. Như trưởng giả rất cưng yêu đứa con trai một, dắt đến nhà trường ý muốn cho học, sau vì sợ con không được mau thành tài nên lại dắt về.

Vì thương con nên trưởng giả ngày đêm ân cần dạy cho nó về bán tự, mà không dạy luận Tỳ Già La, vì nó còn nhỏ tuổi quá, chưa đủ sức học.

Này Ca Diếp! Giả sử trưởng giả dạy về bán tự xong, đứa con trai ấy có thể liền đặng hiểu biết luận Tỳ Già La không?

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn không!

Phật hỏi: Như vậy trưởng giả có bí tàng đối với con của ông không?

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn không! Vì đứa con còn thơ ấu, nên trưởng giả không dạy, chớ chẳng phải vì bí tàng lẩn tiếc mà không dạy. Nếu có lòng tật đố lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không như vậy, sao lại gọi là Như Lai bí tàng được.

Phật nói: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Nếu có lòng tật đố giận hờn lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không có những lòng quấy ấy đâu gọi là bí tàng được.

Này Ca Diếp! Ông trưởng giả trên kia là chỉ cho Như Lai, đứa con trai một của ông là chỉ cho tất cả chúng sanh. Như Lai xem tất cả chúng sanh như con một. Dạy con trai một là nói hàng Thanh Văn đệ tử. Còn bán tự đó là nói chín Bộ Kinh Tiểu Thừa. Luận Tỳ Già La là nói về Kinh Điển Phương Đẳng Đại Thừa.

Vì hàng Thanh Văn không đủ sức trí huệ nên Như Lai dạy cho họ bán tự chín Bộ Kinh Điển mà chẳng dạy luận Tỳ Già La Kinh Điển Phương Đẳng Đại Thừa.

Này Ca Diếp! Như đứa con trai kia tuổi đã lớn, đủ sức học tập, mà trưởng giả không dạy luận Tỳ Già La mới có thể gọi trưởng giả là bí tàng.

Nếu hàng Thanh Văn đủ sức lãnh thọ đại thừa mà Như Lai lẩn tiếc không dạy, mới có thể gọi Như Lai có tạng bí mật. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải như vậy, nên Như Lai không có bí tàng.

Như trưởng giả sau khi dạy bán tự xong, kế vì con mà diễn nói Luận Tỳ Già La. Cũng vậy, Như Lai vì các đệ tử giảng nói bán tự chín phần Kinh xong, kế vì giảng nói luận Tỳ Già La Phương Đẳng Đại Thừa, chính là diệu lý Như Lai thường còn không biến đổi.

Này Ca Diếp! Như tháng mùa hạ, kéo mây nổi sấm xối mưa lớn, khiến nhà nông cày cấy đặng mùa.

Người không gieo trồng thời không chỗ được, chẳng phải lỗi của Long Vương, mà Long Vương cũng không chổ tiếc dấu.

Như Lai đây cũng như vậy, xối mưa pháp lớn: Kinh Đại Niết Bàn. Nếu các chúng sanh gieo hột lành thời được mầm trái trí huệ. Nếu không gieo hột lành thời không chỗ được. Đây không phải là lỗi ở Như Lai, mà Phật Như Lai cũng không chỗ bí tàng.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Nay con quyết định rõ biết Như Lai không chỗ bí tàng.

Như lời Phật nói: Luận Tỳ Già La là nói Phật Như Lai thường còn không biến đổi. Nghĩa đây không phải.

Vì sao?

Vì ngày trước Phật có nói kệ:

Chư Phật cùng Duyên Giác

Nhẫn đến chúng đệ tử

Còn bỏ thân vô thường

Huống là hạng phàm phu.

Nay Phật nói là thường còn không biến đổi, nghĩa đây như thế nào?

Phật dạy: Này Ca Diếp! Như Lai vì hàng Thanh Văn đệ tử mà dạy về bán tự nên nói kệ vô thường ấy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần