Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Phạm Hạnh - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI
PHẨM PHẠM HẠNH
PHẦN MỘT
Này thiện nam tử!
Bồ Tát Ma Ha Tát tu phạm hạnh như thế nào?
Bồ Tát Ma Ha Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết Bàn, trụ bảy pháp lành thời phạm hạnh đầy đủ.
Bảy pháp lành là:
Một là biết pháp.
Hai là biết nghĩa.
Ba là biết giờ.
Bốn là biết tri túc.
Năm là biết mình.
Sáu là biết chúng.
Bảy là biết tôn ty.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết pháp.
Này thiện nam tử! Bồ Tát này biết mười hai Bộ Kinh tức là Tu Đa La, Kỳ Dạ, Thọ Ký, Dà Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, A Ba Đà Na, Y Đế Mục Đà Na, Xà Đà Dà, Tỳ Phật Lược, A Phù Đà Đạt Ma, Ưu Bà Đề Xá.
Đây là Khế Kinh Tu Đa La: Từ như thị ngã văn nhẫn đến câu hoan hỷ phụng hành tất cả như vậy gọi là Tu Đa La Kinh.
Đây là Kỳ dạ: Phật Bảo các Tỳ Kheo ngày xưa ta cùng các ông ngu si không trí huệ, chẳng thể thấy bốn Chân Đế đúng như thật, nên lưu chuyển mãi trong biển khổ sanh tử.
Bốn Chân Đế là: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế.
Ngày xưa Đức Phật vì các Tỳ Kheo nói Khế Kinh xong lại có hàng chúng sanh căn trí sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗ Phật hỏi mọi người rằng, Đức Như Lai vừa rồi nói những việc gì?
Lúc đó Phật vì hàng chúng sanh ấy đem Kinh vừa giảng nói thành kệ tụng:
Ta xưa cùng các ông,
Chẳng thấy bốn Chân Đế,
Nên phải lưu chuyển mãi,
Trong biển khổ sanh tử,
Nếu thấy được bốn đế,
Thời dứt đặng sanh tử.
Sanh tử đã hết rồi,
Chẳng còn thọ thân nữa.
Kệ tụng trên đây gọi là Kỳ Dạ Kinh.
Những gì gọi là thọ ký?
Như có lúc Đức Như Lai nói Kinh hay Luật, vì các hàng Trời hay người mà thọ ký sẽ làm Phật.
Như nói: Đời sau có Vua hiệu là Nhương Khư, ông A Dật Đa sẽ ở cõi này thành bậc Chánh Giác hiệu là Di Lặc Phật. Đây gọi là thọ ký Kinh.
Những gì gọi là Dà Đà?
Trừ trường hàng và các giới luật, ngoài ra những bài kệ bốn câu như:
Các điều ác chớ làm,
Phụng hành những điều lành,
Lóng sạch tâm ý mình,
Là lời dạy của Phật.
Trên đây gọi là Dà Đà Kinh.
Những gì gọi là Ưu Đà Na?
Như Đức Phật lúc xế chiều nhập Thiền định, vì Chư Thiên giảng rộng các pháp yếu.
Lúc đó các Tỳ Kheo đều nghĩ rằng: Giờ đây Đức Như Lai đang làm việc gì?
Sáng ngày sau, Đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùng tha tâm trí mà tự nói rằng: Này các Tỳ Kheo! Tất cả Chư Thiên thọ mạng rất dài.
Lành thay! Các Tỳ Kheo biết vì người, chẳng cầu tư lợi, biết thiểu dục, biết tri túc, được tịch tịnh. Những Kinh như trên đây không ai hỏi Đức Phật tự giảng nói đó gọi là Ưu Đà Na Kinh tự thuyết.
Những gì là Ni Đà Na?
Như trong các Kinh do nhân duyên Phật vì người khác diễn nói.
Lệ như: Trong nước Xá Vệ có một chàng trai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt trong lồng, cho ăn lúa uống nước rồi lại thả đi.
Đức Thế Tôn biết nhân duyên đó mà nói kệ rằng:
Chớ khinh tội nhỏ,
Cho là không họa,
Giọt nước dầu nhỏ,
Lần đầy lu lớn.
Như trên đây gọi là Ni Đà Na Kinh.
Những gì là A Ba Đà Na?
Như những thí dụ trong luật nói.
Những gì là Y Đế Mục Đa Dà!
Lệ như Đức Phật nói: Này các Tỳ Kheo! Lúc ta xuất thế những điều ta dạy bảo gọi là giới Kinh.
Lúc đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phật dạy gọi là trống Cam Lồ.
Lúc Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế lời Phật dạy gọi là pháp cảnh.
Lúc Đức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi là phân biệt không.
Như trên đây gọi là Y Đế Mục Đa Dà Kinh.
Những gì là Xà Đà Dà?
Lệ như Đức Phật xưa kia làm vị Bồ Tát tu khổ hạnh.
Như Phật nói: Này các Tỳ Kheo! Thuở quá khứ ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ, làm Quốc Vương, làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Rồng, làm Kim Súy Điểu v.v… như trên đây gọi là Xa Đà Dà Kinh.
Những gì là Tỳ Phật Lược?
Tức là những Kinh Điển thuộc về Đại Thừa Phương Đẳng nghĩa lý rộng lớn dường như hư không.
Những gì là vị tằng hữu?
Lệ như lúc đức Bồ Tát mới sanh không ai đỡ dắt mà tự đi bảy bước, phóng quang minh lớn ngó khắp mười phương.
Lệ như con vượn tay bưng bát mật dâng cúng Đức Như Lai.
Lệ như chó cổ trắng đến bên Phật nghe pháp.
Lệ như Ma Vương Ba Tuần biến làm trâu xanh đi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm lẫn nhau mà không nứt bể.
Lệ như Phật lúc mới sanh lúc vào Thiên Miếu làm cho Thiên tượng đứng dậy bước xuống đảnh lễ.
Những đoạn Kinh như trên đây gọi là Vị Tằng hữu Kinh.
Những gì là Ưu Ba Đề Xá?
Lệ như Đức Phật lúc nói Kinh hoặc luận nghĩa cùng phân biệt giảng rộng biện luận các tướng mạo, đây gọi là Ưu Ba Đề Xá Kinh.
Bồ Tát nếu có thể rõ biết mười hai Bộ Kinh như vậy thời gọi là biết pháp.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết nghĩa?
Nếu Bồ Tát ở nơi tất cả văn tự ngữ ngôn biết rộng những ý nghĩa thời gọi là biết nghĩa.
Bố Tát Ma Ha Tát thế nào là biết giờ?
Bồ Tát khéo biết trong những giờ như vậy có thể tu tịch tịnh, trong những giờ như vậy có thể tu tinh tấn, trong những giờ như vậy có thể tu xả định, trong những giờ như vậy có thể cúng dường Phật, trong những giờ như vậy có thể cúng dường Sư Trưởng, trong những giờ như vậy có thể tu hạnh bố thí, trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủ bát nhã Ba La Mật.
Như trên đây gọi là biết giờ.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là tri túc?
Bồ Tát biết đủ đối với những việc dưới đây: Uống ăn, y phục, thuốc men, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói, nín. Như trên đây gọi là tri túc.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết mình?
Vị Bồ Tát này tự biết rằng ta có đức tin như vậy, có giới như vậy, có đa văn như vậy, có xả như vậy, có huệ như vậy, có đi đến như vậy, có chánh niệm như vậy, có hạnh lành như vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy, như trên đây gọi là biết mình.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết người?
Bồ Tát này biết những người đây là hàng Sát Đế Lợi, là hàng Bà La Môn, là hàng Cư Sĩ, là hàng Sa Môn. Nên ở trong chúng này đi đến như vậy, ngồi đứng như vậy, Thuyết Pháp như vậy, hỏi đáp như vậy. Như trên đây gọi là biết người.
Bồ Tát Ma Ha Tát thế nào gọi là biết người bậc tôn bậc ty?
Người có hai hạng: Một là có tín tâm, hai là chẳng có tín tâm. Bồ Tát phải biết người có tín tâm thời là người lành, người chẳng có tín tâm thời chẳng gọi là người lành.
Người có tín tâm lại có hai hạng: Một là người thường đến Chùa Chiền, hai là người chẳng đến Chùa, Bồ Tát phải biết người đến Chùa là lành, người chẳng đến Chùa thời chẳng gọi là lành.
Người đến Chùa lại có hai hạng: Một là lễ bái, hai là chẳng lễ bái, Bồ Tát phải biết người lễ bái là lành, người chẳng lễ bái thời chẳng gọi là lành.
Người lễ bái lại có hai hạng: Một là nghe pháp, hai là chẳng nghe pháp. Bồ Tát phải biết người nghe pháp là lành, người chẳng nghe pháp thời chẳng gọi là lành.
Người nghe pháp lại có hai hạng: Một là hết lòng lắng nghe, hai là chẳng hết lòng. Bồ Tát phải biết người hết lòng nghe thời gọi là lành, người chẳng hết lòng nghe thời chẳng gọi là lành.
Hết lòng nghe pháp lại có hai hạng: Một là suy gẫm ý nghĩa, hai là chẳng suy gẫm ý nghĩa. Bồ Tát phải biết người gẫm nghĩa là lành, người chẳng gẫm nghĩa thời chẳng gọi là lành.
Người gẫm nghĩa lại có hai hạng: Một là đúng như lời nói thật hành, hai là chẳng thật hành đúng như lời nói. Người thật hành gọi là lành, người chẳng thật hành thời chẳng gọi là lành.
Thật hành đúng như lời nói lại có hai hạng: Một là cầu quả Thanh Văn chẳng có thể lợi ích an lạc tất cả chúng sanh khổ não, hai là hồi hướng đại thừa vô thượng, lợi ích mọi người làm cho đặng an lạc. Bồ Tát phải biết lợi ích mọi người làm cho đặng an lạc là điều lành vô thượng.
Này thiện nam tử! Như trong các châu báu, như ý bảo châu tốt đẹp hơn tất cả. Như trong các mùi vị, chất Cam Lồ là hơn hết. Bồ Tát này ở nơi trong hàng Trời người là bậc hơn tất cả không gì ví dụ được.
Như trên đây gọi là bậc Đại Bồ Tát trụ nơi Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn an trụ nơi bảy pháp lành. Bồ Tát trụ nơi bảy pháp lành này thời đặng đầy đủ phạm hạnh.
Này thiện nam tử! Lại có phạm hạnh gọi là từ, bi, hỷ, xả.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Nếu người tu hạnh từ có thể dứt sân khuể. Người tu lòng bi cũng dứt được sân khuể. Sao lại nói là bốn tâm vô lượng. Xét theo nghĩa đó thời lẽ ra chỉ có ba.
Thế Tôn!
Lòng từ có ba duyên: Một là duyên chúng sanh, hai là duyên nơi pháp, ba thời duyên không. Lòng bi, hỷ, xả, cũng ba duyên như vậy, nếu theo nghĩa này thời lẽ ra chỉ có ba chẳng nên có bốn.
Duyên chúng sanh là duyên nơi thân ngũ ấm nguyện cho họ được vui. Duyên nơi pháp là những vật chúng sanh cần dùng đem ban cho họ. Không duyên tức là duyên nơi Như Lai.
Lòng từ thời phần nhiều duyên nơi chúng sanh nghèo cùng. Đức Như Lai Đại Sư lìa hẳn sự nghèo cùng hưởng sự vui đệ nhất. Nếu duyên chúng sanh thời chẳng duyên nơi Phật, pháp cũng như vậy. Vì do nghĩa này nên duyên Như Lai gọi là không duyên.
Thế Tôn! Lòng từ duyên tất cả chúng sanh, như duyên cha mẹ, vợ con, thân thuộc. Do nghĩa này nên gọi là chúng sanh duyên.
Pháp Duyên là chẳng thấy cha mẹ, vợ con, thân thuộc. Thấy tất cả pháp đều từ nơi duyên sanh ra. Đây gọi là Pháp Duyên. Vô duyên là chẳng trụ nơi pháp tướng và chúng sanh tướng. Từ, bi, hỷ, xả, đều duyên như vậy, vì thế nên lẽ ra chỉ có ba chẳng nên có bốn.
Thế Tôn! Người có hai hạng: Một là kiến hành, hai là ái hành. Người kiến hành nhiều tu từ bi, người ái hành nhiều tu hỉ xả. Vì thế nên đáng lẽ có hai chẳng nên có bốn.
Thế Tôn! Luận về vô lượng gọi là vô biên. Vì chẳng thể được biên bờ nên gọi là vô lượng. Nếu là vô lượng thời lẽ ra nên có một chẳng nên nói là bốn. Nếu nói là bốn đâu đặng vô lượng. Vì thế nên là một chẳng nên là bốn vậy.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Chư Phật Như Lai vì mọi loài chúng sanh mà giảng nói pháp yếu. Lời của Phật bí mật khó hiểu biết được. Hoặc vì chúng sanh nói một nhân duyên. Như nói những gì là một nhân duyên tức là tất cả pháp hữu vi.
Hoặc nói hai thứ là nhân cùng quả.
Hoặc nói ba thứ là phiền não, nghiệp và khổ.
Hoặc nói bốn thứ là vô minh, hành, sanh, và lão tử.
Hoặc nói năm thứ là thọ, ái, thủ, hữu và vô sanh.
Hoặc nói sáu thứ là nhân quả ba đời.
Hoặc nói bảy thứ là thức, danh sắc, lục nhập xúc, thọ, ái, và thủ. Hoặc nói tám thứ là trong mười hai nhân duyên trừ vô minh, hành, sanh và lão tử.
Hoặc nói chín thứ như trong Thánh Kinh nói mười hai nhân duyên trừ vô minh, hành và thức.
Hoặc nói mười một thứ như trong Kinh Tát Giá Ni Kiền Tử nói mười hai nhân duyên trừ sanh.
Hoặc có lúc nói đủ cả mười hai nhân duyên. Như nơi thành Vương Xá vì Ca Diếp v.v… nói vô minh nhẫn đến sanh, lão, bệnh, tử.
Này thiện nam tử! Như một nhân duyên vì chúng sanh nên phân biệt nhiều thứ, vô lượng tâm cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Vì do nghĩa này đối với hạnh thâm mật của Như Lai chẳng nên sanh nghi.
Đức Như Lai có phương tiện lớn: Vô thường nói là thường, thường nói là vô thường, nói vui là khổ, nói khổ là vui, bất tịnh nói là tịnh, tịnh nói là bất tịnh, ngã nói là vô ngã, vô ngã nói là ngã, nơi vô tình nói là hữu Tình, nơi hữu Tình nói là vô tình, chẳng phải vật nói là vật, vật nói là chẳng phải vật.
Chẳng phải thiệt nói là thiệt, thiệt nói là chẳng phải thiệt, chẳng phải cảnh nói là cảnh, cảnh nói là chẳng phải cảnh, chẳng phải sanh nói là sanh, sanh nói là chẳng phải sanh, nhẫn đến vô minh nói là minh, minh nói là vô minh, sắc nói là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc nói là sắc, chẳng phải đạo nói là đạo, đạo nói là chẳng phải đạo.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai vì điều phục chúng sanh dùng vô lượng phương tiện như vậy há lại là hư vọng ư. Hoặc có chúng sanh tham của cải, đối với người đó ta tự hóa thân mình làm Vua Chuyển Luân, theo chỗ cần dùng của người đó cung cấp các thứ vật dụng trong nhiều năm, rồi sau giáo hoá nó, cho nó được trụ nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Nếu có chúng sanh tham đắm ngũ dục, trong nhiều năm ta đem ngũ dục cung cấp nó, rồi sau khuyến hoá, cho nó trụ nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Nếu có chúng sanh sang giàu, thời ta trong nhiều năm vì người đó mà làm tôi tớ hầu hạ cho người đó vừa lòng, rồi sau khuyến hoá người đó trụ nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Nếu có chúng sanh cứng cỏi tự thị cần có người can gián, thời ta trong nhiều năm can ngăn khuyên dạy, làm cho tâm người đó điều thuận rồi sau khuyến hoá người đó trụ nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai trong vô lượng năm dùng mọi thứ phương tiện làm cho chúng sanh được trụ nơi Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác như vậy há lại hư vọng ư. Chư Phật Như Lai dầu ở trong chỗ ác nhưng như hoa sen không bị nhiễm ô.
Này thiện nam tử! Nên biết nghĩa của bốn tâm vô lượng cũng như vậy, tâm vô lượng này thể tánh có bốn. Nếu có người tu hành thời sanh lên Cõi Trời Đại Phạm. Tâm vô lượng này có bốn loại, nên nói là bốn.
Luận về người tu lòng từ có thể dứt tham dục. Người tu lòng bi có thể dứt sân khuể. Người tu lòng hỷ có thể dứt sự chẳng vui. Người tu lòng xả có thể dứt tham dục và sân khuể.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên được gọi là bốn, chẳng phải một, hai cũng chẳng phải ba.
Này thiện nam tử! Như lời ông nói lòng từ có thể dứt được sân, lòng bi cũng như vậy nên nói là ba đó, ông chẳng nên nạn như vậy.
Sân khuể có hai thứ: Một là giết chết, hai là đánh đập. Tu lòng từ thời dứt được sự giận giết chết. Tu lòng bi thời dứt được sự giận đánh đập. Do nghĩa đó há lại chẳng phải là bốn ư.
Sân lại có hai thứ: Một là sân với chúng sanh, hai là sân với chẳng phải chúng sanh. Người tu lòng từ dứt được sự sân với chúng sanh. Người tu lòng bi dứt được sự sân với chẳng phải chúng sanh.
Sân lại có hai thứ: Một là có nhân duyên, hai là không nhân duyên. Tu lòng từ dứt được sự sân có nhân duyên. Tu lòng bi dứt được sự sân không nhân duyên.
Sân lại có hai thứ: Một là tập quán quá khứ, hai là tập quán hiện tại, tu lòng từ dứt được sân quá khứ. Tu lòng bi dứt được sân hiện tại.
Sân lại có hai thứ: Một là sân Thánh Nhân hai là sân phàm phu. Tu lòng từ dứt được sân Thánh Nhân. Tu lòng bi dứt được sân phàm phu.
Sân lại có hai thứ: Một là thượng hai là trung. Tu lòng từ dứt được sân hạng thượng. Tu lòng bi dứt được sân hạng trung.
Này thiện nam tử!
Do nghĩa này nên gọi là bốn, đâu đặng nạn rằng: Nên ba chẳng nên bốn. Thế nên tâm vô lượng này loại của nó đối nhau phân biệt làm bốn.
Lại do vì căn khí nên thành bốn: Căn khí nếu có tâm từ thời chẳng đặng có tâm bi, hỷ, xả. Vì do nghĩa này nên phải là bốn không bớt được.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm - Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Bảy - Phẩm Lục Trọng - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Ba Mươi Ba - Phẩm Phạm Chí - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hai Pháp
Phật Thuyết Mười Giới Pháp Và Oai Nghi Của Sa Di - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Hai - Thiện Quyền - Phần Ba