Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Bảy - Phẩm Lục Trọng - Phần Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM BA MƯƠI BẢY

PHẨM LỤC TRỌNG  

PHẦN BỐN  

Tôi nghe như vậy!

Một thời, Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Phạm Chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn cùng thăm hỏi, ngồi một bên.

Khi ấy, Phạm Chí bạch Thế Tôn: Cù Đàm!

Dòng Sát Lợi nay ý muốn cầu điều gì?

Có hạnh nghiệp gì?

Theo giáo lý nào?

Cứu cánh việc gì?

Bà La Môn ý muốn việc gì?

Có hành nghiệp gì?

Theo giáo lý nào?

Cứu cánh việc gì?

Quốc vương ngày nay ý muốn cầu gì?

Có hành nghiệp gì?

Theo giáo lý nào?

Cứu cánh việc gì?

Ðạo tặc ngày nay ý muốn cầu gì?

Có hành nghiệp gì?

Theo giáo lý nào?

Cứu cánh việc gì?

Người nữ ý muốn cầu gì?

Có hạnh nghiệp gì?

Nghe giáo lý nào?

Rốt ráo việc gì?

Bấy giờ Thế Tôn bảo Phạm Chí: Dòng Sát Lợi thường ưa đấu tranh, nhiều kỹ thuật, ưa làm việc muốn cho rốt ráo không nghỉ giữa chừng.

Phạm Chí hỏi: Phạm Chí ý muốn cầu gì?

Thế Tôn bảo: Phạm Chí ý thích chú thuật, cần ở nhà, thích chỗ vắng vẻ, ý để nơi Phạm Thiên.

Phạm Chí lại hỏi: Quốc Vương cầu việc gì?

Thế Tôn bảo: Phạm Chí nên biết!

Ý vua muốn được việc nước, ý để nơi binh đao gậy gộc, tham đắm tài bảo.

Phạm Chí lại hỏi: Trộm cướp ý muốn gì?

Thế Tôn bảo: Trộm thì có ý trộm cắp, tâm để chỗ gian tà, ý muốn khiến người không biết việc làm của mình.

Phạm Chí lại hỏi: Người nữ ý muốn cầu gì?

Thế Tôn bảo: Người nữ ý để nơi người nam, tham đắm tài bảo, tâm ràng buộc việc nam nữ, tham dục tự do.

Bấy giờ Phạm Chí bạch Thế Tôn: Thật là kỳ đặc! Thế Tôn biết hết bao nhiêu sự biến đổi, như thật không dối.

Hôm nay Tỳ Kheo ý muốn cầu gì?

Thế Tôn bảo: Giới đức đầy đủ, tâm dạo nơi đạo pháp, ý để nơi Tứ Đế, muốn đến Niết Bàn.

Ðó là điều mong cầu của Tỳ Kheo.

Phạm Chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn: Ðúng vậy, Thế Tôn! Việc làm của Tỳ Kheo ý không thể di chuyển. Nghĩa ấy thật như vậy.

Thưa Cù Đàm! Niết Bàn ấy thật là vui thích. Như Lai nói đã nhiều. Ví như người mù được thấy, người điếc được nghe, ở chỗ tối thấy sáng, ngày nay Như Lai nói cũng như thế, không có khác. Nay tôi việc nước bận rộn, muốn trở về.

Thế Tôn bảo: Nên biết đúng thời. Khi ấy Phạm Chí Sanh Lậu liền đứng dậy, nhiễu Phật ba vòng rồi lui đi.

Bấy giờ, Phạm Chí Sanh Lậu nghe Phật nói xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời, Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Phạm Chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.

Khi ấy Phạm Chí bạch Thế Tôn: Trong đây có Tỳ Kheo chăng?

Làm sao được tu phạm hạnh không có thiếu sót?

Và thanh tịnh tu phạm hạnh?

Thế Tôn bảo: Nếu có người giới luật đầy đủ không phạm điều gì, đấy gọi là thanh tịnh tu hành phạm hạnh.

Lại nữa, Phạm Chí! Nếu có mắt thấy sắc mà không khởi tưởng dính mắc, không khởi thức niệm. Trừ ác tưởng, bỏ pháp bất thiện, nhãn căn được toàn vẹn. Ðó là người này thanh tịnh tu phạm hạnh.

Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm, ý biết pháp đều không thức tưởng, không khởi tưởng niệm, thanh tịnh được tu phạm hạnh, ý căn được toàn vẹn.

Người như thế tu phạm hạnh không có thiếu sót.

Bà La Môn bạch Phật: Những người nào không tu phạm hạnh?

Không đầy đủ hạnh thanh tịnh?

Thế Tôn bảo: Nếu có người cùng hội họp, đây gọi là không phải phạm hạnh.

Bà La Môn bạch Phật: Những người nào sơ sót không hành đầy đủ?

Thế Tôn bảo: Nếu có người cùng nữ nhân giao tiếp, hoặc đụng chạm tay chân, ấp ủ trong lòng không quên mất. Đó là này Phạm Chí, không hành đầy đủ, rơi vào các dâm dật, tương ưng với dâm, nộ, si.

Lại nữa Phạm Chí! Hoặc cùng nữ nhân đùa bỡn nói năng qua lại. Đó là, này Phạm Chí người này hành không đầy đủ, rơi vào dâm, nộ, si. Phạm hạnh chẳng đầy đủ để tu hành thanh tịnh.

Lại nữa Phạm Chí! Nếu có nữ nhân dùng mắt ác nhìn nhau mà không di chuyển, trong đó liền khởi tưởng dâm, nộ, si, sanh các loạn niệm. Đó là, Phạm Chí, người này phạm hạnh chẳng sạch, chẳng tu phạm hạnh.

Lại nữa, Phạm Chí! Hoặc có người nghe xa xa, hoặc nghe tiếng khóc, hoặc nghe tiếng cười, trong đó khởi dâm, nộ, si, khởi các loạn tưởng. Đó là Phạm Chí, người này chẳng thanh tịnh tu phạm hạnh, tương ưng với dâm, nộ, si, hạnh không hoàn toàn.

Lại nữa Phạm Chí! Nếu có người từng thấy nữ nhân, sau lại khởi tưởng, nhớ đến đầu mắt cô gái, trong đó khởi tưởng, ở chỗ vắng vẻ sanh dâm, nộ, si, tương ưng với ác hạnh. Đó là, Phạm Chí người này chẳng tu phạm hạnh.

Khi ấy, Phạm Chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn: Rất là kỳ đặc! Sa Môn Cù Đàm này cũng biết phạm hạnh, cũng biết chẳng phải phạm hạnh. Cũng biết lậu hạnh, cũng biết bất lậu hạnh.

Vì sao thế?

Nay tôi cũng sanh niệm này: Có những người cùng nữ nhân đụng chạm tay chân, khởi các loạn tưởng.

Tôi liền sanh niệm này: Người này hạnh chẳng thanh tịnh, tương ứng với dâm, nộ, si. Ðệ nhất thọ lạc là nữ nhân vậy. Ðáng ham muốn đệ nhất là mắt mắt nhìn nhau. Và nữ nhân ấy hoặc nói, hoặc cười ràng buộc đàn ông, hoặc cùng nói chuyện ràng buộc đàn ông.

Khi ấy tôi liền sanh niệm này: Sáu điều này người trọn hành hạnh chẳng thanh tịnh.

Hôm nay Như Lai nói đã nhiều. Ví như người mù được mắt, người mê thấy đường, người ngu nghe đạo, người có mắt thấy sắc. Như Lai thuyết pháp cũng lại như thế.

Nay con tự quy y Phật, Pháp, Tăng Chúng. Từ nay về sau con không sát sanh nữa, cúi mong Thế Tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc. Bấy giờ Phạm Chí nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở trong rừng phía ngoài thành Tỳ Xá Ly cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm người câu hội. Bấy giờ Tôn Giả Mã Sư đến giờ đắp y, ôm bát vào thành khất thực.

Khi ấy Ni Kiền Tử Tát giá xa thấy Mã Sư đến, liền nói với Mã Sư rằng:

Thầy ông thuyết những nghĩa gì?

Có những giáo giới gì?

Dùng lời dạy gì cho đệ tử?

Mã Sư đáp: Phạm Chí! Sắc là vô thường, vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không. Không là kia không phải sở hữu của ta, ta không phải sở hữu của kia. Như thế là điều người trí học, thọ, tưởng, hành, thức vô thường.

Ngũ thạnh ấm này vô thường, vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không. Không là kia không phải sở hữu của ta, ta không phải sở hữu của kia.

Ông muốn biết thì thầy ta giáo giới nghĩa như thế, thuyết cho các đệ tử nghĩa như thế.

Khi ấy Ni Kiền Tử lấy hai tay bịt tai lại nói rằng: Thôi! Thôi! Mã Sư! Tôi không ưa nghe nói vậy. Nếu Sa Môn Cù Đàm có dạy vậy, tôi thực chẳng ưa nghe.

Vì cớ sao?

Như nghĩa của tôi: Sắc là thường, nghĩa của Sa Môn là vô thường. Hôm nào sẽ gặp Sa Môn Cù Đàm để cùng luận nghị, sẽ trừ tâm điên đảo của Sa Môn Cù Đàm.

Bây giờ trong thành Tỳ Xá Ly có năm trăm đồng tử tụ tập một chỗ nhóm bàn luận.

Ni Kiền Tử đến chỗ năm trăm đồng tử, bảo đồng tử rằng: Các em hãy cùng đến chỗ Sa Môn Cù Đàm.

Vì sao thế?

Ý ta muốn cùng Sa Môn kia thảo luận, khiến Sa Môn kia thấy được đạo chánh đế. Sa Môn nói sắc là vô thường nhưng như nghĩ của ta sắc là thường.

Ví như lực sĩ tay nắm dê lông dài, tùy ý dẫn đi khắp nơi không nghi nan. Nay ta cũng lại như thế, cùng Sa Môn kia luận nghị, tùy ta buông bắt không có nghi nan.

Ví như voi mạnh hung bạo có sáu ngà ở trong núi sâu đùa chơi không khó gì, nay ta cũng lại như thế, cùng Sa Môn ấy luận nghị không có nghi nan.

Ví như hai trượng phu mạnh mẽ bắt một người yếu đuối, đặt trên lửa nướng tùy ý xoay trở cũng không khó khăn. Nay ta cùng ông ấy luận nghĩa cũng không nghi nan. Trong luận nghị của ta, voi còn có thể bị hại huống là người.

Cũng hay khiến voi chạy Ðông, Tây, Nam, Bắc há không bằng người sao?

Nay kèo cột trong giảng đường này là vật vô tình còn có thể khiến cho di chuyển, hà huống cùng người luận nghị có thể thắng được ta?

Ta sẽ khiến ông ấy phun máu từ mặt mũi ra mà chết.

Trong nhóm đó, hoặc có đồng tử nói: Ni Kiền Tử trọn chẳng thể luận nghị với Sa Môn, chỉ e Sa Môn Cù Đàm sẽ luận nghị lại Ni Kiền Tử.

Hoặc có người nói: Sa Môn chẳng thể cùng Ni Kiền Tử luận nghị. Ni Kiền Tử có thể cùng Sa Môn luận nghị.

Khi ấy Ni Kiền Tử liền nghĩ rằng: Nếu khiến Sa Môn Cù Đàm nói như Tỳ Kheo Mã Sư thì đủ cho ta đối đầu. Nếu lại có nghĩa khác thì nghe xong sẽ biết. Ni Kiền Tử liền dẫn năm trăm đồng tử, trước sau vây quanh đến chỗ Thế Tôn, thăm hỏi xong ngồi xuống một bên.

Khi ấy, Ni Kiền Tử bạch Thế Tôn: Thế nào, Cù Đàm có giáo giới gì, dùng giáo giới gì dạy các đệ tử?

Phật bảo Ni Kiền Tử: Ðiều của Ta nói sắc là vô thường, vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không, không tức là kia không phải do sở hữu của ta, ta không phải sở hữu của kia. Thọ, tưởng, hành, thức, năm thạnh ấm thảy đều vô thường, vô thường tức là khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã là không. Không là kia không sở hữu của ta, ta không phải sở hữu của kia. Giáo giới của ta, nghĩa này như vậy.

Ni Kiền Tử đáp: Tôi chẳng ưa nghe nghĩa này.

Vì cớ sao?

Như tôi hiểu nghĩa, sắc là thường.

Thế Tôn bảo: Nay ông hãy chuyên tâm ý, tư duyên về diệu lý, sau hãy nói.

Ni Kiền Tử nói: Nay tôi nói sắc là thường, năm trăm đồng tử này, nghĩa này cũng thế.

Thế Tôn bảo: Nay ông nói sắc là thường, năm trăm đồng tử này nghĩa cũng vậy.

Thế Tôn lại bảo: Nay ông đã tự mình biện thuyết, vì sao lại dẫn năm trăm người kia?

Ni Kiền Tử đáp: Nay tôi nói sắc là thường.

Sa Môn muốn nói năng những gì?

Thế Tôn bảo:

Nay ta nói: Sắc là vô thường cũng lại vô ngã. Tạm dối hội họp có sắc này, cũng không chân thật, không chắc chắn cũng như đám tuyết, là pháp môn diệt, là pháp biến đổi. Nay ông vừa nói sắc là thường. Ta lại hỏi ông, hãy tùy ý đáp ta.

Thế nào Ni Kiền Tử?

Chuyển Luân Thánh Vương lại ở nước mình được tự tại không?

Lại Ðại Vương ấy, người không đáng chết mà giết chết, người không đáng trói lại trói, có được không?

Ni Kiền Tử đáp: Thánh Vương này có sức tự tại ấy. Người chẳng đáng giết có thể giết, người chẳng đáng trói có thể trói.

Thế Tôn bảo: Thế nào, Ni Kiền Tử, Chuyển Luân Thánh Vương sẽ lại già chăng?

Ðầu bạc, mặt nhăn, áo quần dơ bẩn?

Khi ấy Ni Kiền Tử làm thinh chẳng đáp. Thế Tôn hỏi hai ba lần. Ông ta cũng hai ba phen làm thinh chẳng đáp.

Khi ấy lực sĩ Kim Cang Mật Tích, tay cầm chày Kim Cang, ở trên hư không bảo: Nay ông không đáp lại luận này, thì ở trước Như Lai, ta sẽ đập đầu ông thành bảy mảnh.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ni Kiền Tử: Ông hãy nhìn lên hư không.

Ni Kiền Tử ngước nhìn không trung, thấy lực sĩ Kim Cang Mật Tích, lại nghe nói giữa không: Ông không đáp luận của Như Lai, ta sẽ đập đầu ông bể làm bảy mảnh.

Ni Kiền Tử thấy rồi kinh sợ, áo lông dựng lên, bạch Thế Tôn: Cúi mong Cù Đàm, hãy cứu giúp cho. Nay hãy hỏi luận, tôi sẽ đáp.

Thế Tôn bảo: Thế nào, Ni Kiền Tử, Chuyển Luân Thánh Vương có già chăng?

Cũng lại đầu bạc, răng rụng, da dùn, mặt nhăn chăng?

Ni Kiền Tử đáp: Sa Môn Cù Đàm!

Tuy có lời này nhưng theo nghĩa của tôi, sắc là thường.

Thế Tôn bảo: Ông khéo suy nghĩ rồi sau hãy đáp.

Nghĩa trước và sau chẳng tương ưng với nhau, chỉ hãy luận rằng Chuyển Luân Thánh Vương rồi có già không?

Cũng sẽ đầu bạc, răng rụng, da dùn, mặt nhăn chăng?

Ni Kiền Tử đáp: Chuyển Luân Thánh Vương cũng sẽ già.

Thế Tôn bảo: Chuyển Luân Thánh Vương thường hay ở nước mình tự do.

Vì cớ sao chẳng thể khỏi già, khỏi bệnh, khỏi chết?

Bảo là Ta không già, bệnh, chết, ta là thường thì đáng lẽ phải được như thế, nghĩa này có thể được không?

Ni Kiền Tử làm thinh không đáp, sầu lo chẳng vui, lặng lẽ chẳng nói, thân thể tuôn mồ hôi, thấm ướt y phục, thấm chỗ ngồi và ướt cả đất.

Thế Tôn bảo: Ni Kiền Tử! Ông ở trong đại chúng rống như sư tử.

Ðồng Tử các em! Cùng ta đến chỗ Cù Đàm để cùng luận nghị. Ta sẽ hàng phục như bắt dê lông dài, tùy ý dắt đi khắp nơi không có nghi nan. Cũng như voi lớn vào trong nước sâu, tùy ý dạo chơi không có sợ. Cũng như hai trượng phu mạnh mẽ bắt một người yếu ớt, để trên lửa nướng tùy ý xoay trở.

Ông cũng lại nói: Ta thường hay luận bại voi lớn, cột kèo thảo mộc như thế, toàn là vô tình, cùng chúng luận nghị có thể khiến cho co duỗi, cúi, ngước, cũng có thể khiến dưới nách chảy mồ hôi.

Bấy giờ Thế Tôn vén ba y lên, chỉ cho Ni Kiền Tử: Ông xem Như Lai không có chút mồ hôi chảy. Ngược lại bây giờ ông mồ hôi thấm đất. Ni Kiền Tử làm thinh chẳng đáp. Bấy giờ có một đồng tử tên là Ðầu Ma ở trong chúng kia.

Khi ấy đồng tử Ðầu Ma bạch Thế Tôn: Nay con đủ sức nhận có điều thi hành, cũng muốn được nói.

Thế Tôn bảo: Tùy ý nói đi.

Ðồng Tử Ðầu Ma bạch Phật: Ví như cách làng xóm không xa, có ao tắm tốt, nhưng ao tắm ấy có trùng nhiều chân. Nhân dân lớn, nhỏ, trai, gái trong làng đến ao tắm bắt trùng này ra, lấy đá ngói ném trùng này bị thương, chặt hết chân.

Trùng này muốn trở vào nước, trọn không được. Ni Kiền Tử này cũng lại như thế, ban đầu hung hăng muốn cùng Như Lai tranh luận, ôm lòng tật đố và kiêu mạn.

Như Lai trừ hết không sót chút nào. Ni Kiền Tử này không thể đến luận nghị với Như Lai lần nào nữa.

Bấy giờ Ni Kiền Tử bảo đồng tử Ðầu Ma rằng: Ông ngu mê không phân biệt được chân ngụy, ta không nghị luận với ông, ta nghị luận với Sa Môn Cù Đàm.

Ni Kiền Tử bạch Phật: Xin hỏi nghĩa lý, tôi sẽ thuyết nữa.

Thế Tôn bảo: Thế nào Ni Kiền Tử?

Chuyển Luân Thánh Vương muốn cho già, bệnh, chết chẳng đến, có thể được chăng?

Vị Thánh Ðại vương kia quả có được toại nguyện chăng?

Ni Kiền Tử đáp: Quả không toại nguyện.

Muốn cho có sắc này, muốn cho không có sắc này, có kết quả chăng?

Ni Kiền Tử đáp: Không kết quả, Cù Đàm!

Thế Tôn bảo: Thế nào, Ni Kiền Tử?

Sắc là thường hay vô thường?

Ni Kiền Tử đáp: Sắc là vô thường.

Nếu lại vô thường thì là pháp biến đổi, ông lại thấy đây là ngã, cho ngã là sở hữu của kia chăng?

Không, Cù Đàm!

Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

Vô thường.

Thế Tôn bảo: Nếu lại vô thường, là pháp biến đổi, ông thấy có chăng?

Không.

Thế Tôn bảo: Ngũ thạnh ấm này thường hay vô thường?

Ni Kiền Tử đáp: Vô thường.

Phật nói: Nếu lại vô thường là pháp biến đổi, ông có thấy có chăng?

Không.

Thế nào Ni Kiền Tử?

Ông nói là thường.

Lý này không trái với nghĩa sao?

Khi ấy, Ni Kiền Tử bạch Phật: Nay con ngu si không phân biệt Chân Đế nên mới khởi lòng muốn tranh luận với Cù Đàm mà nói sắc là thường.

Ví như sư tử mạnh, từ xa thấy người đến mà có tâm sợ sệt sao?

Không có việc đó. Hôm nay Như Lai cũng lại như thế, không có mảy may sợ sệt. Nay con cuống hoặc, không rõ nghĩa sâu, dám xúc nhiễu Sa Môn Cù Đàm.

Ngài đã nói quá nhiều, ví như người mù được mắt, người điếc được nghe suốt, người mê được thấy đường, người không mắt thấy sắc. Sa Môn Cù Đàm cũng lại như thế, dùng vô số phương tiện vì con thuyết pháp.

Nay con xin quy y Sa Môn Cù Đàm, pháp và Tỳ Kheo Tăng. Từ nay về sau con xin trọn Đời làm Ưu Bà Tắc, không sát sanh nữa. Cúi mong Cù Đàm và Tỳ Kheo Tăng nhận lời con thỉnh.

Con muốn cúng cơm trưa cho Phật và Tỳ Kheo Tăng. Bấy giờ Thế Tôn yên lặng nhận lời. Ni Kiền Tử thấy Thế Tôn đã nhận lời mời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy nhiễu Phật ba vòng, cúi lạy rồi đi.

Ông ta đến chỗ của các đồng tử ở Tỳ Xá Ly, bảo các đồng tử rằng: Các ông định cúng dường ta những gì thì ngay bây giờ cung cấp cho ta, chớ để lỡ thời. Nay ta thỉnh Sa Môn Cù Đàm và Tỳ Kheo Tăng ngày mai thọ thực.

Khi ấy các đồng tử mỗi người đều lo bày biện các thức ăn uống, đem đến cho ông ta.

Rồi ngay đêm đó, Ni Kiền Tử bày biện đủ các thức ăn uống ngon ngọt, trải tọa cụ tốt đẹp, rồi đến bạch Phật: Ðúng thời, nay đã đến giờ, cúi mong hạ cố. Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát cùng Tỳ Kheo Tăng vào thành Tỳ Xá Ly, đến nhà Ni Kiền Tử, ngồi vào chỗ theo thứ tự.

Ni Kiền Tử thấy Phật và Tỳ Kheo Tăng ngồi yên rồi liền tự tay châm chước các món ăn uống. Khi thấy Phật và Tỳ Kheo Tăng ăn xong và rửa tay rồi, ông lấy một ghế nhỏ đến trước Như Lai ngồi, muốn được nghe pháp.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết diệu luận cho ông ta. Nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh Thiên, dục là uế ác, dâm là hạnh bất tịnh, xuất yếu là vui.

Thế Tôn thấy Ni Kiền Tử tâm ý khai mở theo pháp Chư Phật, Thế Tôn thường thuyết là khổ, tập, diệt, đạo, Ngài bèn thuyết hết cho Ni Kiền Tử.

Khi đó, Ni Kiền Tử ở ngay chỗ ngồi, các trần cấu dứt sạch, được pháp nhãn thanh tịnh.

Thế Tôn liền nói kệ:

Tế tự, lửa trên hết

Thi thơ, tụng là đầu

Trong người, Vua cao nhất

Các sông, biển là nguồn.

Trong sao, Trăng sáng nhất

Ánh sáng, mặt trời hơn,

Trên dưới và bốn phương

Các vật ở dưới đất.

Trời cùng với nhân loại.

Phật là Đấng Vô Thượng.

Người muốn cầu đức này

Chánh giác là tối thượng.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi.

Khi đó, năm trăm đệ tử của Ni Kiền Tử nghe thầy mình nhận Phật Giáo hóa, mới bảo nhau rằng: Ðại Sư của chúng ta tại sao lại thờ Cù Đàm làm thầy?

Rồi các đệ tử này ra khỏi thành Tỳ Xá Ly, đứng ở giữa đường. Lúc ấy, Ni Kiền Tử muốn đến chỗ Phật nghe Pháp. Thế Tôn Thuyết Pháp cho Ni Kiền Tử, khuyến khích cho hoan hỉ.

Nghe Pháp xong, Ni Kiền Tử liền từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật, và lui đi.

Ðệ tử Ni Kiền Tử từ xa thấy thầy mình đến liền bảo nhau: Ðệ tử Sa Môn Cù Đàm đang trên đường đi đến.

Rồi họ dùng đá ngói đánh chết ông ta. Các đồng tử nghe Ni Kiền Tử bị đệ tử giết chết, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, rồi ngồi xuống một bên.

Các đồng tử bạch Thế Tôn: Ni Kiền Tử được Như Lai giáo hóa, bây giờ bị đệ tử giết chết rồi.

Nay đã mạng chung, ông ấy sanh về chỗ nào?

Thế Tôn bảo: Ông ấy là người có đức, đầy đủ Tứ Đế, đã diệt ba kiết sử thành Tu Đà Hoàn, ắt dứt được mé khổ. Ngày nay mạng chung, ông ấy sanh lên Cõi Trời Ba Mươi Ba. Ông ta thấy Phật Di Lặc rồi sẽ hết mé khổ. Ðây là nghĩa ấy, nên nhớ tu hành.

Bấy giờ các đồng tử bạch Thế Tôn: Thật là kỳ lạ! Ni Kiền Tử này đến chỗ Thế Tôn đòi thi luận nghị, trở lại dùng sự luận nghị của mình để tự trói buộc, và nhận sự giáo hóa của Như Lai. Hễ người nào gặp Như Lai, thì hoàn toàn không có hư vọng.

Ví như có người vào biển lấy của báu, chắc chắn sẽ lấy được, trọn không về tay không.

Ðây cũng như thế, có chúng sanh nào đến chỗ Thế Tôn muốn được Pháp Bảo thì trọn chẳng về không.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho các đồng tử, khiến cho hoan hỷ. Các đồng tử nghe Phật thuyết pháp xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên, nhiễu Phật ba vòng, cúi lạy rồi lui đi.

Bấy giờ các đồng tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường