Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI BA

PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT  

PHẦN NĂM  

Này thiện nam tử! Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là Bồ Tát trọn chẳng thối thất tâm bồ đề, cũng gọi là thí chủ có thể thấy Đức Như Lai, thấy rõ Phật Tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏi sanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn Ba la mật.

Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên tâm bất thối chẳng gọi là Phật Tánh!

Này thiện nam tử! Ông chẳng nên vì tâm có thối chuyển mà cho rằng các chúng sanh không có Phật Tánh. Thí như có hai người đều nghe phương khác có núi Thất Bảo, trong núi có suối nước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời vĩnh viễn khỏi sự nghèo khốn.

Ai uống được nước suối ấy thời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi hiểm trở nhiều tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đi một người sắm sửa các thứ vật cần dùng đi đường, một người thời đi tay không cùng nhau đồng tiến về hướng núi báu. Dọc đường gặp người mang nhiều của báu đi ngược chiều.

Hai người hỏi rằng: Xin hỏi ông xứ đó thiệt có núi bảy báu ư?

Đáp rằng: Thiệt có núi báu, chính tôi đã được bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉ lo rằng đường xa hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muôn ngàn người đi ít người đến được.

Nghe khách nói một người ăn năn cho rằng đường sá gian nan khốn khổ như vậy, vô lượng người đi không mấy người được đến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu. Hiện tại sản nghiệp của tôi cũng tạm đủ dùng. Nếu gắng gượng đi hoặc có thể chẳng toàn thân mạng. Thân mạng đã chẳng còn, còn mong gì được trường thọ.

Một người nói rằng: Có người đến được thời tôi cũng có thể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy bảo vật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng toại nguyện có chết cũng cam lòng.

Lúc đó hai người, một thời ăn năn trở về, một thời tiến tới núi báu. Người sau này đến được núi kia, uống nước suối ngọt, mang nhiều bảo vật trở về nhà, dùng của ấy phụng dưỡng cha mẹ cung cấp họ hàng thân thuộc.

Bấy giờ người ăn năn thối vế trước kia thấy kết quả tốt đẹp của người này trong lòng phát nhẫn: Anh ấy mang được bảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳng dám đi?

Liền sắm sửa hành trang đến thẳng núi báu.

Này thiện nam tử! Núi báu kia dụ cho Đại Niết Bàn. Nước suối ngọt dụ cho Phật Tánh. Hai người kia dụ cho hai vị Bồ Tát sơ phát tâm. Con đường hiểm ác dụ cho sanh tử. Người đi ngược chiều gặp dọc đường dụ cho Đức Phật Thế Tôn. Trộm cướp dụ cho tứ ma.

Hầm hố gai chông dụ cho các phiền não. Không nước không cỏ dụ cho chẳng tu tập đạo bồ đề. Người nghe khó ăn năn trở về dụ cho Bồ Tát Thối Chuyển. Người dũng mãnh thẳng tiến dụ cho Bồ Tát Bất Thối.

Này thiện nam tử! Phật Tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi. Như con đường hiểm trở kia không ai có thể bảo rằng, vì có người ăn năn trở lại mà làm cho con đường thành vô thường.

Phật Tánh cũng như vậy, trong đạo bồ đề trọn không có sự thối thất. Như người ăn năn kia thấy bạn mình đặng của báu mang về nhà giàu có tự tại cúng dường cha mẹ cung cấp thân thuộc, an vui sung sướng. Do đó bèn phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc thân mạng Bồ Tát Thối Chuyển cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành vô thượng bồ đề. Do nghĩa này nên trong Kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng và Nhất Xiển Đề đều có Phật Tánh.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Bồ Tát thế nào có thối cùng chẳ ng thối?

Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu tập nghiệp nhân ba mươi hai tướng tốt của Như Lai thời được gọi là bậc bất động chuyển, là thương xót tất cả chúng sanh, gọi là hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, là bậc A Bệ Bạt Trí.

Này thiện nam tử! Nếu Đại Bồ Tát trì giới chẳng lay động, tâm bố thí chẳng dời đổi, lời nói chân thật như núi Tu Di, nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bàn chân đầy bằng.

Nếu Đại Bồ Tát ở nơi cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng nhẫn đến các loài súc sanh, đem của cải đúng pháp cúng dường cung cấp, do nghiệp duyên này được tướng tốt dưới lòng bàn chân có tướng thiên bức luân.

Nếu Đại Bồ Tát chẳng sát sanh chẳng trộm cướp, đối với cha mẹ Sư Trưởng thường có lòng hoan hỷ, do nghiệp duyên này được thành ba tướng tốt:

Một là ngón tay dài vót, hai là gót chân dài, ba là thân mình vuông thẳng, ba tướng tốt này đồng do một nghiệp duyên.

Nếu Đại Bồ Tát tu tập tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng tốt ngón tay có màng lưới như ngỗng chúa trắng.

Nếu Đại Bồ Tát lúc cha mẹ Sư Trưởng có bệnh khổ, tự tay tắm rửa lau chùi dắt đở thoa bóp, do nghiệp này được tướng tốt, tay chân dịu dàng.

Nếu Đại Bồ Tát trì giới nghe pháp, cùng bố thí không nhàm chán, do nghiệp duyên này được tướng tốt mắt cá lóng đốt đều no đủ, lông trong thân đều xoắn lên trên.

Nếu Đại Bồ Tát chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết chánh pháp, do nghiệp duyên này được tướng tốt đùi vế như nai chúa.

Nếu Đại Bồ Tát đối với chúng sanh chẳng có lòng tổn hại, ăn uống biết đủ thường ưa bố thí khám bệnh, cung cấp thuốc men do nghiệp duyên này được tướng tốt, thân hình tròn đủ như cây Ni Câu Đà, lúc đứng hai tay dài quá đầu gối, đỉnh đầu có nhục kế vô kiến đảnh tướng.

Nếu Đại Bồ Tát thấy người gặp sự kinh sợ liền cứu hộ cho, thấy người lõa lồ rách rưới thời bố thí y phục do nghiệp duyên này được tướng tốt mã âm tàng.

Nếu Đại Bồ Tát gần gũi người trí xa lìa kẻ ngu, vui vẻ hỏi đáp quét dọn đường đi, do nghiệp này da thứa mịn màng, lông trên thân xoay về phía hữu.

Nếu Đại Bồ Tát thường dùng y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men hương hoa đèn đuốc bố thí cho người, do nghiệp này đặng thân màu vàng ròng thường có ánh sáng chói rỡ.

Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí những vật báu quý có thể đem cho chẳng tiếc chẳng nghĩ là phước điền hay chẳng phải phước điền, do nghiệp duyên này được tướng tốt bảy chỗ trên thân được no đủ. Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí lòng chẳng nghi ngờ, do nghiệp duyên này được tiếng nói dịu dàng.

Nếu Đại Bồ Tát đúng như pháp làm ra của cải đem bố thí, do nghiệp duyên này được tướng tốt nơi thân chỗ xương thiếu đều đầy đủ thân như Sư Tử Vương, cánh tay thon dài.

Nếu Đại Bồ Tát xa lìa lưỡng thiệt ác khẩu và tâm giận hờn, do nghiệp duyên này đủ bốn mươi cái răng trong trắng sạch sẽ, bằng thẳng khít khao.

Nếu Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi đối với chúng sanh do nghiệp duyên này được tướng hai răng nanh tốt.

Nếu Đại Bồ Tát thường phát nguyện: Có người đến cầu xin thời cấp cho theo ý của họ xin, do nghiệp duyên này được gò má như sư tử.

Nếu Đại Bồ Tát cung cấp đồ uống ăn theo sở thích của chúng sanh do nghiệp duyên này được tướng tốt trong cổ họng thường rịn chất Cam Lộ thượng vị.

Nếu Đại Bồ Tát tự thật hành mười điều lành cùng giáo hóa người, do nghiệp duyên này được tướng tốt lưỡi rộng dài.

Nếu Đại Bồ Tát chẳng rao nói lỗi xấu của người chẳng hủy báng chánh pháp, do nghiệp duyên này đặng tướng tốt tiếng phạm âm.

Nếu Đại Bồ Tát thấy kẻ thù nghịch thời sanh lóng hoan hỷ, do nhân duyên này được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.

Nếu Đại Bồ Tát chẳng ẩn che tài đức của người mà phô dương điều hay của mình, do nghiệp duyên này được tướng tốt bạch hào.

Này thiện nam tử! Nếu Đại Bồ Tát tu tập nghiệp duyên ba mươi hai tướng tốt như vậy thời được chẳng thối chuyển tâm bồ đề.

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới và nghiệp quả của Chư Phật và Phật Tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bốn pháp này đều là thường, vì thường trụ nên chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh vì phiền não che đậy nên gọi là thường.

Vì dứt phiền não thường nên gọi là vô thường.

Nếu nói rằng tất cả chúng sanh là thường, cớ gì lại tu tập tám Thánh Đạo?

Tu tập để dứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọi là vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bị phiền não che đậy mà chẳng thấy được Phật Tánh, vì chẳng thấy nên chẳng được Niết Bàn.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Như lời Phật nói tất cả các pháp có hai thứ nhân là chánh nhân và duyên nhân.

Do hai nhân này lẽ ra không có trói buộc không có giải thoát: Thân ngũ ấm này niệm niệm sanh diệt, nó đã sanh diệt thời có gì là trói buộc và giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Nhân thân ngũ ấm này mà sanh thân ngũ ấm sau. Thân này tự diệt chẳng đến thân kia nhưng có thể sinh ngũ ấm kia. Như do hột sanh mọng, hột chẳng đến mọng, dầu hột chẳng đến mọng mà có thể sanh mọng.

Chúng sanh cũng như vậy, thế nào có trói buộc và giải thoát?

Phật nói: Này thiện nam tử!

Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải thuyết. Như người lúc chết rất khổ quyến thuộc bao quanh kêu khóc than thở, người này sợ hải chẳng biết cầu cứu với ai, dầu có năm giác quan mà không hay không biết, tay chân run giựt, không thể tự chủ, thân thể lành lạnh sắp hết hơi nóng, thấy những tướng nghiệp báo thiện ác đã tạo từ trước.

Như mặt Trời sắp lặn, thời bóng của núi gò ngã về hướng đông, không bao giờ trở qua Tây. Nghiệp quả của chúng sanh cũng như vậy, lúc thân ngũ ấm này diệt thời ngũ ấm kia liền nối sanh. Như đèn cháy lên thời bóng tối mất. Đèn tắt, thời bóng tối hiện ra.

Như ấn sáp in vào đất sét, ấn cùng đất sét hiệp, ấn rã, lằn chữ nổi lên, mà ấn sáp này chẳng biến nơi đất sét, lằn chữ chẳng phải từ đất sét ra, cũng chẳng phải chỗ khác đến, do ấn làm nhân duyên mà sanh lằn chữ.

Ngũ ấm hiện tại diệt, thân trung ấm liền sanh. Ngũ ấm hiện tại này trọn chẳng biến làm thân trung ấm, thân trung ấm chẳng phải tự sanh, cũng chẳng từ nơi khác đến, do thân hiện tại mà sanh thân trung ấm.

Như ấn sáp in nơi đất sét, ấn rã lằn chữ thành, danh từ dầu không sai khác mà thời tiết đều riêng khác. Do đây nên ta nói thân trung ấm chẳng phải nhục nhãn thấy được, thiên nhãn mới ngó thấy. Thân trung ấm này có ba cách ăn tư thực, xúc thực, ý thực.

Thân trung ấm có hai thứ: Một là nghiệp quả lành, hai là nghiệp quả ác. Do nghiệp lành nên được giác quán lành, do nghiệp ác nên được giác quán ác. Lúc cha mẹ giao hội phán hiệp theo nhân duyên của nghiệp mà đến chỗ thọ sanh. Đối với mẹ sanh lòng thương, đối với cha sanh lòng sân. Lúc tinh của cha chảy ra cho rằng là của mình, sanh lòng vui mừng.

Do nhân duyên của ba thứ phiền não này, thân trung ấm diệt mà sanh, thân ngũ ấm sau. Như ấn sáp in vào đất sét ấn hư lằn chữ thành.

Lúc sanh ra những căn thân có đầy đủ cùng chẳng đủ. Người căn đầy đủ thấy sắc thời sanh lòng tham, vì tham nên gọi là ái. Do hư dối mà sanh lòng tham, vì tham nên gọi là vô minh.

Do nhân duyên tham ái và vô minh nên những cảnh giới xem thấy thảy đều điên đảo: Vô thường thấy là thường, vô ngã thấy là ngã, vô lạc thấy là lạc, bất tịnh thấy là tịnh. Do bốn thứ điên đảo này nên gây tạo những hạnh nghiệp thiện ác.

Phiền não gây ra nghiệp, nghiệp sanh ra phiền não, đây gọi là hệ phược. Do nghĩa này nên gọi là ngũ ấm sanh.

Người này nếu được gần gũi Chư Phật, đệ tử của Phật cùng những thiện tri thức thời được nghe được học mười hai Bộ Kinh. Do nghe pháp nên quán những cảnh giới lành. Do quán cảnh giới lành nên được trí huệ lớn, đây gọi là chánh tri kiến.

Vì được chánh tri kiến nên sanh lòng hối hận đối với sanh tử. Do tâm hối hận này nên chẳng ưa thích sanh tử, vì chẳng ưa thích nên phá được lòng tham, vì phá lòng tham nên tu tám Thánh Đạo, do tu Tám Thánh Đạo nên được không sanh tử, vì không sanh tử nên gọi là được giải thoát.

Như lửa chẳng gặp củi gọi đó là tắt. Vì tắt diệt sanh tử nên gọi là diệt độ. Do nghĩa này nên gọi là thân ngũ ấm diệt.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Trong hư không chẳng có gai thế nào nói rằng nhổ?

Ngũ ấm không cột trói thế nào gọi rằng hệ phược?

Phật nói: Này thiện nam tử! Vì xiềng xích phiền não trói buộc ngũ ấm, lìa ngũ ấm rồi thời không có phiền não riêng, lìa phiền não rồi thời không có ngũ ấm riêng.

Như cột chống đỡ nóc nhà, lìa nhà thời không cột, lìa cột thời không nhà.

Thân ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não nên gọi là giải thoát.

Như nắm tay, chắp tay, cột gút, ba thứ hiệp tan sanh diệt không có thứ gì riêng.

Ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não gọi là giải thoát.

Như nói danh sắc hệ phược chúng sanh, cũng gọi là chúng sanh hệ phược danh sắc.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Như con mắt chẳng tự thấy, ngón tay chẳng tự chạm, dao chẳng tự cắt, thọ chẳng tự thọ sao Đức Thế Tôn lại nói rằng danh sắc hệ phược danh sắc?

Vì nói danh sắc thời chính là chúng sanh còn nói chúng sanh thời chính là danh sắc. Nếu nói danh sắc hệ phược chúng sanh thời là danh sắc hệ phược danh sắc.

Phật nói: Này thiện nam tử! Như lúc hai tay chắp lại, thời không có cái gì khác đến chắp. Danh cùng sắc cũng như vậy. Do đây nên ta nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu rời danh sắc thời được giải thoát. Vì thế nên ta nói chúng sanh giải thoát.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Nếu có danh sắc là hệ phược, các vị A La Hán chưa rời danh sắc, lẽ ra cũng là hệ phược!

Phật nói: Này thiện nam tử!

Có hai thứ giải thoát: Một là tử đoạn, hai là quả đoạn.

Tử đoạn là dứt phiền não. Các vị A La Hán đã dứt phiền não, các kiết sử đã phá hư, nên tử kiết sử dứt chẳng hệ phược được.

Vì A La Hán chưa dứt quả nên gọi là quả hệ phược. Các vị A La Hán chẳng thấy Phật Tánh. Vì chẳng thấy nên chẳng được vô thượng bồ đề. Do đây nên có thể gọi là quả hệ phược mà chẳng được gọi là danh sắc hệ phược.

Này thiện nam tử! Như thắp đèn, lúc dầu chưa hết thời ánh lửa chẳng tắt. Nếu đã hết dầu, thời lửa quyết phải tắt. Dầu là dụ cho phiền não. Đèn là dụ cho chúng sanh. Vì dầu phiền não nên chúng sanh chẳng nhập Niết Bàn. Nếu dứt hết phiền não, thời tất nhập Niết Bàn.

Bạch Thế Tôn! Đèn cùng dầu tánh cách riêng khác còn chúng sanh và phiền não thời không phải như vậy: Chúng sanh là phiền não, cũng như phiền não là chúng sanh. Chúng sanh gọi là ngũ ấm, chính ngũ ấm gọi là chúng sanh. Ngũ ấm gọi là phiền não, cũng như phiền não gọi là ngũ ấm.

Sao Đức Như Lai lại dụ như đèn?

Này thiện nam tử! Có tám thứ ví dụ: Một là thuận dụ, hai là nghịch dụ, ba là hiện dụ, bốn là phi dụ, năm là tiên dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám là biến dụ.

Thế nào là thuận dụ?

Như trong Kinh nói: Trời mưa lớn mương rãnh đều đầy nước, vì mương rãng đầy nước nên hố nhỏ đầy, vì hố nhỏ đầy nên hố lớn đầy, vì hố lớn đầy nên suối nhỏ đầy, vì suối nhỏ đầy nên suối lớn đầy, vì suối lớn đầy nên ao nhỏ đầy, vì ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy, vì ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy, vì sông nhỏ đầy nên sông lớn đầy, vì sông lớn đầy nên biển lớn đầy.

Pháp vỏ của Đức Như Lai cũng như vậy, làm cho chúng sanh đầy đủ giới hạnh! Vì giới đầy đủ nên tâm chẳng hối hận được đầy đủ: Vì tâm chẳng hối hận đầy nên lòng hoan hỷ đầy đủ, vì lòng hoan hỷ đầy nên sự viễn ly đầy đủ, vì sự viễn ly đầy nên sự an ổn được đầy đủ, vì sự an ổn đầy nên chánh định đầy đủ, vì chánh tri kiến đầy nên sự nhàm lìa đầy đủ, vì yểm ly đầy nên sự quở trách đầy đủ, vì sự quở trách đầy nên giải thoát đầy đủ, vì giải thoát đầy nên Niết Bàn đầy đủ. Đây gọi là thuận dụ vậy.

Thế nào là nghịch dụ?

Biển lớn là nguồn chính là sông lớn. Sông lớn có nguồn chính là sông nhỏ, sông nhỏ có nguồn chính là ao lớn, ao lớn có nguồn chính là ao nhỏ, ao nhỏ có nguồn chính là suối lớn, suối lớn có nguồn chính là suối nhỏ, suối nhỏ có nguồn chính là hồ lớn, hồ lớn có nguồn chính là hồ nhỏ, hồ nhỏ có nguồn chính là mương rãnh, mương rãnh có nguyồn chính là mưa to.

Cũng vậy, Niết Bàn có nguồn chính là giải thoát: Giải thoát từ quở trách, quở trách từ yểm ly, yểm ly từ chánh tri kiến, chánh tri kiến từ chánh định, chánh định từ an ổn, an ổn từ viễn ly, viễn ly từ hoan hỷ, hoan hỷ từ chẳng hối hận, chẳng hối hận từ trì giới, sự trì giới bắt nguồn từ nơi pháp võ của Đức Như Lai. Đây gọi là nghịch dụ vậy.

Thế nào là hiện dụ?

Như nói tâm tánh của chúng sanh như khỉ, vượn. Tánh của khỉ, vượn bỏ cái này liền bắt cái kia. Cũng vậy, tâm tánh của chúng sanh bắt lấy lục trần không lúc nào tạm dừng. Đây gọi là hiện dụ vậy.

Thế nào là phi dụ?

Như xưa kia ta bảo Vua Ba Tư Nặc: Đại Vương! Có người thân tín từ bốn phương đến báo với nhà Vua rằng có bốn hòn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhân dân.

Nếu nghe như vậy Đại Vương sẽ lập kế gì?

Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Nếu có như vậy thời không còn có chỗ trốn tránh, chỉ phải chuyên tâm trì giới bố thí.

Ta khen rằng: Lành thay! Đại Vương! Ta nói bốn hòn núi là sanh lão bệnh tử của chúng sanh.

Bốn sự khổ đó thường đến bức não chúng sanh, sao Đại Vương chẳng trì giới bố thí?

Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Trì giới bố thí được quả báo gì?

Ta nói: Trì giới bố thí sẽ được hưởng sự vui sướng ở cõi Trời cõi người.

Vua nói: Bạch Thế Tôn! Cây Ni Câu Đà trì giới bố thí cũng được hưởng phước ư?

Ta nói cây ni câu đà chẳng thể trì giới bố thí, nếu có nó có thể làm được thời cũng được hưởng phước như người. Đây gọi là phi dụ.

Thế nào là Tiên dụ?

Trong Kinh nói: Như có người ưa thích hoa đẹp, lúc hái lấy bị nước cuốn trôi, chúng sanh cũng vậy vì tham ái ngũ dục mà bị sanh tử. Đây gọi là Tiên dụ.

Thế nào là hậu dụ?

Như Kinh Pháp cú nói:

Chớ khinh tội nhỏ,

Cho là không hại.

Giọt nước dầu ít,

Lần đầy lu lớn.

Đây gọi là hậu dụ.

Thế nào là tiên hậu dụ?

Ví như cây chuối có trái thời chết. Người ngu được lợi dưỡng cũng như vậy. Như con la có thai thời mạng sống chẳng còn lâu. Đây là Tiên hậu dụ.

Thế nào là biến dụ?

Như trong Kinh nói Trời Đao Lợi có cây Ba Lợi Chất Đa, gốc nó sâu năm do diên, cao một trăm do diên, nhánh lá bủa ra bốn phía năm mươi do diên, lúc lá chín thời màu vàng, Chư Thiên xem thấy sinh lòng vui mừng. Lá này chẳng bao lâu rơi rụng.

Chư Thiên thấy lá rụng lại sanh lòng vui mừng. Nhánh cây chẳng bao lâu sẽ đổi sắc, Chư Thiên thấy nhánh đổi sắc lại sanh lòng vui mừng. Nhánh này chẳng bao lâu sẽ sanh nụ tròn Chư Thiên thấy nụ sanh lòng vui mừng.

Những nụ này chẳng bao lâu sẽ dài nhọn, Chư Thiên lại sanh lòng vui mừng. Những nụ dài nhọn này chẳng bao lâu sẽ nở ra, lúc nụ nở hơi thơm khắp năm mươi do diên, chiếu sáng tám mươi do diên. Lúc đó Chư Thiên ba tháng mùa hạ chơi vui dưới cây này.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần