Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Hai - Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý đức Vương Bồ Tát - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI HAI

PHẨM QUANG MINH BIẾN CHIẾU

CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG BỒ TÁT  

PHẦN BA  

Bạch Thế Tôn! Pháp có thể thấy thời gọi là vô thường.

Như ngày trước Đức Phật nói: Người thấy Niết Bàn thời dứt trừ được tất cả phiền não. Ví như hư không chẳng có chướng ngại nên gọi là thường. Giả sử Niết Bàn là thường v.v…, cớ sao chúng sanh lại có người được, người chẳng được. Như vậy Niết Bàn đối với chúng sanh chẳng bình đẳng lẻ ra chẳng gọi là thường.

Ví như trăm người chung có một kẻ oán thù, nếu hại được kẻ này thời nhiều người được an lạc. Giả sử Niết Bàn là pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽ ra nhiều người cũng được, một người dứt kiết sử lẽ ra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọi là thường.

Như có người cung kính cúng dường tôn trọng tán thán Quốc Vương, Vương Tử, Phụ Mẫu, Sư Trưởng thời được lợi dưỡng, đây chẳng gọi là thường.

Niết Bàn cũng vậy, như ngày trước trong Kinh A Hàm Đức Phật nói với A Nan: Nếu có người cung kính Niết Bàn thời dứt được kiết sử hưởng thọ vô lượng an lạc do đây nên chẳng gọi là thường.

Bạch Thế Tôn! Nếu trong Niết Bàn có danh từ thường, lạc, ngã, tịnh thời chẳng gọi là thường, hư không có, sao lại có thể nói?

Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: Thể Niết Bàn chẳng phải trước không nay có. Nếu thể Niết Bàn trước không nay có thời chẳng phải vô lậu. Pháp thường trụ, nay có Phật hay không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ. Bởi chúng sanh bị phiền não che đậy nên chẳng thấy Niết Bàn, bèn gọi là không.

Đại Bồ Tát dùng giới định huệ siêng tu tâm mình, dứt xong phiền não bèn đặng thấy Niết Bàn. Phải biết Niết Bàn là pháp thường trụ chẳng phải trước không nay có nên gọi là thường.

Như dưới giếng trong nhà tối có các thứ châu báu, người cũng biết là có nhưng vì tối nên không thấy. Người có trí thắp đèn sáng lớn cầm soi đó thời thấy châu báu rõ ràng.

Người trí này trọn chẳng nghĩ rằng: Nước giếng cùng châu báu, trước không mà nay có. Cũng vậy, Niết Bàn trước vốn tự có, chẳng phải nay mới có, vì phiền não tối tăm nên chúng sanh chẳng thấy. Đức Như Lai đại trí thắp đèn trí huệ, làm cho Bồ Tát đặng thấy Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh. Do đây nên người trí chẳng nên nói rằng Niết Bàn trước không mà nay có.

Này thiện nam tử! Như ông nói do trang nghiêm nên đặng thành Niết Bàn lẽ ra là vô thường, nghĩa này cũng không phải. Vì thể của Niết Bàn chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải tạo tác mà có, chẳng phải là pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe.

Chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải chết, chẳng phải tướng biệt dị, cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải qua, chẳng phải lại, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải một và nhiều, chẳng phải dài và vắn, chẳng phải tròn và vuông, chẳng phải nhọn và méo, chẳng phải có tướng và không tướng, chẳng phải danh và sắc, chẳng phải nhân và quả, chẳng phải ngã và ngã sở.

Do những nghĩa này nên Niết Bàn là thường không biến đổi. Phải tu tập pháp lành trong vô lượng kiếp để tự trang nghiêm rồi mới được thấy.

Ví như duới đất có mạch nước trong mát chúng sanh chẳng thấy được, người trí ra công đào đất, thời đặng nước. Niết Bàn cũng như vậy.

Ví như người mù chẳng thấy mặt trời, mặt trăng lương y điều trị thời đặng thấy. Mặt trời, mặt trăng chẳng phải là trước không mà nay có. Niết Bàn cũng như vậy từ trước đã tự có, chẳng phải mới có ngày nay.

Như người có tội bị trói nhốt trong khám, lâu ngày mãn tù mới được thả ra, trở về nhà đặng thấy cha mẹ anh em vợ con quyến thuộc. Niết Bàn cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ông nói vì nhân duyên nên pháp Niết Bàn lẽ ra vô thường, nghĩa này chẳng đúng.

Này thiện nam tử! Xét về nhân có năm thứ: Một là sanh nhân, hai là hòa hiệp nhân, ba là trụ nhân, bốn là tăng trưởng nhân, năm là viễn nhân. Sanh nhân chính là nghiệp phiền não, cũng như hột giống của cây cỏ.

Hòa hiệp nhân, như pháp lành hòa hiệp với tâm lành, pháp chẳng lành hòa hiệp với tâm chẳng lành, pháp vô ký hòa hiệp cùng tâm vô ký.

Trụ nhân, như dưới có cột thời nóc nhà chẳng sập, núi, sông, cây cối, nhân mặt đất mà đặng đứng vững, cũng vậy, nhờ có tứ đại cùng vô lượng phiền não mà chúng sanh đặng an trụ. Tăng trưởng nhân, do uống ăn y phục v.v… làm cho chúng sanh tăng trưởng.

Ví như lửa chẳng đốt, chim chẳng ăn thời hột giống của cây cỏ được tăng trưởng. Như hàng Sa Môn, Bà La Môn nhờ thầy lành bạn tốt mà được tăng trưởng. Như nhờ cha mẹ mà con được tăng trưởng.

Viễn nhân, như nhân Thần Chú mà quỷ chẳng hại được, độc chẳng trúng được, như nhờ Quốc Vương không có trộm cướp, như nương đất nước mà mầm mọc lên, như nước khuấy, công người là Viễn nhân của chất tô.

Như ánh sáng màu sắc v.v… là viễn nhân của nhãn thức, tinh huyết của cha mẹ là viễn nhân của chúng sanh. Như thời tiết v.v… đều gọi là viễn nhân.

Này thiện nam tử! Thể Niết Bàn chẳng phải do nhân như vậy làm thành, sao ông lại nói là vô thường?

Lại có hai thứ nhân: Một là tác nhân, hai là liễu nhân. Như khí cụ của thợ gốm thời gọi là tác nhân, như đèn đuốc vân vân soi vật trong tối thời gọi là liễu nhân.

Này thiện nam tử! Đại Niết Bàn chẳng do tác nhân mà có, chỉ do liễu nhân. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp Ba la mật gọi là liễu nhân. Bố thí là nhân của Niết Bàn, chẳng phải là nhân của Đại Niết Bàn. Đàn Ba la mật mới được gọi là nhân của Đại Niết Bàn.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhân của Niết Bàn, chẳng phải nhân của Đại Niết Bàn. Vô lượng vô số pháp trợ bồ đề mới được gọi là nhân của Đại Niết Bàn.

Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Tại sao bố thí chẳng được gọi là Đàn Ba la mật?

Bố thí thế nào mới được gọi là đàn Ba la mật, nhẫn đến bát nhã Ba la mật?

Thế nào gọi là Niết Bàn và Đại Niết Bàn?

Phật nói: Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu hành Đại Thừa Phương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng nghe bố thí cũng chẳng thấy bố thí. Chẳng nghe Đàn Ba la mật cũng như chẳng thấy nhẫn đến chẳng nghe bát nhã, chẳng thấy bát nhã, cũng chẳng nghe chẳng thấy bát nhã Ba la mật. Chẳng nghe chẳng thấy Niết Bàn và Đại Niết Bàn.

Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn, biết và thấy pháp giới, hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng: Không có tướng hòa hiệp giác tri. Đặng tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng ánh nắng, tướng thành Càn Thát Bà, tướng trống không. Bồ Tát thấy được những tướng như vậy thời không tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là Đại Bồ Tát an trụ thật tướng.

Đại Bồ Tát tự biết đây là bố thí, đây là đàn Ba la mật nhẫn đến đây là bát nhã, đây là bát nhã Ba la mật, đây là Niết Bàn, đây là Đại Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Thế nào là bố thí mà chẳng phải Ba la mật?

Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là bố thí chẳng phải Ba la mật. Nếu không người xin tâm tự thí xả, thời gọi là Đàn Ba la mật.

Nếu bố thí có thời gian thời gọi là bố thí chẳng phải Ba la mật. Nếu thường thật hành bố thí thời gọi là đàn Ba la mật, nếu bố thí rồi trở lại sanh lòng hối hận đây gọi là bố thí chẳng phải Ba la mật. Thí rồi chẳng ăn năn thời gọi là đàn Ba la mật.

Đại Bồ Tát đối với của cải có bốn quan niệm lo sợ: Một là Vua quan tịch thâu, hai là trộm cướp, ba là nước lụt, bốn là lửa cháy, do đó nên vui vẻ đem bố thí, đây gọi là Đàn Ba la mật nếu mong được báo đền mà bố thí thời chẳng phải Ba la mật. Bố thí chẳng mong báo đền thời gọi là Đàn Ba la mật.

Nếu vì kinh sợ, vì tiếng tăm lợi lộc, vì gia pháp tương truyền, vì cầu vui Cõi Trời, vì kiêu mạn, vì hơn người, vì quen thân, vì cầu báo đền thời như là buôn bán đổi chác. Như người trồng cây để được bóng mát, được bông trái, hoặc để được cây gỗ. Nếu người tu hành mà bố thí như vậy thời gọi là bố thí chẳng phải Ba la mật.

Đại Bồ Tát tu hành Phương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng thấy người bố thí cũng như chẳng thấy kẻ lãnh thọ và của cải, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy phước điền hay chẳng phải phước điền, chẳng thấy nhân duyên, quả báo, chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hay ít, tịnh hay bất tịnh, chẳng khinh người lãnh thọ cũng như chẳng khinh thân mình hay của cải.

Chẳng để ý người ngó thấy hay không ngó thấy, chẳng chấp mình cùng người chỉ vì pháp thường trụ Phương Đẳng Đại Niết Bàn mà thật hành bố thí chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh mà thật hành bố thí, vì dứt tất cả phiền não cho chúng sanh mà thật hành bố thí, chỉ vì chúng sanh nên chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải, mà thật hành bố thí.

Ví như người té xuống biển lớn, ôm lấy tử thi mà được thoát nạn, Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn lúc thật hành bố thí cũng như ôm lấy tử thi để được vào bờ.

Ví như có người bị nhốt trong ngục kín, cửa nẻo đều đóng chặt, chỉ có lỗ cầu xí, bèn do nơi đó chui ra mà được thong thả, Đại Bồ Tát tu hành Đại Niết Bàn lúc thật hành bố thí cũng như vậy.

Ví như người sanh qúy phải nạn gấp kinh sợ không có chỗ dựa nương, bèn nương nhờ Chiên Đà La. Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thật hành bố thí cũng như vậy.

Ví như người bệnh nặng, vì muốn được lành mạnh nên uống chất thuốc dơ. Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thật hành bố thí cũng như vậy. Như Bà La Môn gặp lúc mất mùa đói khát vì mạng sống nên ăn thịt chó, Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thật hành bố thí cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Trong Đại Niết Bàn những việc như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay chẳng nghe mà được nghe giới luật cùng Thi La Ba la mật nhẫn đến Bát Nhã cùng Bát Nhã Ba la mật, như trong Kinh Tạp Hoa Đức Phật đã giảng rộng.

Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn chẳng nghe mà được nghe?

Mười hai Bộ Kinh nghĩa lý thâm thúy từ trước chẳng nghe, nay nhân Kinh này mà được nghe đầy đủ. Trước dầu được nghe nhưng chỉ nghe danh tự, nay ở Kinh này mới đặng nghe nghĩa lý. Thanh Văn, Duyên Giác chỉ nghe danh tự của mười hai Bộ Kinh mà chẳng nghe nghĩa lý, nay ở Kinh này được nghe đầy đủ. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.

Trong tất cả Kinh của Thanh Văn, Duyên Giác chẳng nghe Đức Phật có thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng rốt ráo nhập diệt, Tam Bảo và Phật Tánh không có tướng sai khác, người phạm bốn trọng tội, hủy báng Kinh Điển đại thừa, tạo tội ngũ nghịch và nhất xiển đề, tất cả đều có Phật Tánh. Nay ở Kinh này mà đặng nghe đó. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.

Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Nếu nhất xiển đề v.v… mà có Phật Tánh, tại sao bọn họ lại đọa địa ngục?

Bạch Thế Tôn! Giả sử bọn họ có Phật Tánh, sao lại nói là không có thường, lạc, ngã, tịnh?

Nếu dứt căn lành gọi là nhất xiển đề, lúc dứt căn lành tại sao Phật Tánh lại chẳng dứt?

Phật Tánh nếu dứt sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh?

Như Phật Tánh chẳng dứt sao lại gọi là nhất xiển đề?

Bạch Thế Tôn! Phạm bốn tội nặng gọi là bất định, hủy báng Kinh đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cùng nhất xiển đề đều gọi là bất định. Những hạng này nếu quyết định làm sao đặng thành vô thượng bồ đề, Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật cũng gọi là bất định, vì nếu quyết định lẽ ra Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật đều chẳng được thành vô thượng bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Nếu phạm bốn tội nặng là chẳng quyết định, thời Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật cũng là chẳng quyết định, chư Phật Như Lai cũng lại chẳng quyết định như thế thể tánh Niết Bàn cũng lại chẳng quyết định, tất cả pháp cũng chẳng quyết định.

Tại sao chẳng quyết định gọi là nhất xiển đề. Trừ nhất xiển đề thời thành Phật Đạo. Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng như vậy, nhập Niết Bàn rồi đáng lẽ cũng lại trở ra chẳng nhập Niết Bàn. Nếu như vậy thời tánh Niết Bàn cũng là chẳng nhất định. Vì chẳng nhất định nên biết chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh.

Sao lại nói rằng: nhất xiển đề v.v… sẽ đặng Niết Bàn?

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Ông vì muốn lợi ích an lạc chúng sanh, vì lòng từ bi xót thương thế gian, vì muốn sách tấn các Bồ Tát phát bồ đề tâm, nên hỏi Phật những điều như vậy.

Ông đã gần gũi vô lượng chư Phật quá khứ trồng những căn lành, từ lâu đã thành tựu công đức bồ đề hàng phục các loài ma, đã giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh đưa họ đến Vô Thượng, Chánh Giác, từ lâu đã thông đạt tạng thâm mật của Như Lai, đã từng đem những nghĩa thâm mật như trên thưa hỏi hằng hà sa chư Phật thuở quá khứ.

Tất cả thế gian hoặc người hoặc Trời hoặc Sa Môn hoặc Bà La Môn hoặc Ma Vương, Phạm Vương, ta đều không thấy ai có thể hỏi được như vậy. Ông nên thành tâm lắng nghe.

Này thiện nam tử! nhất xiển đề cũng chẳng nhất định. Vì nếu nhất định thời nhất xiển đề trọn không thể đặng thành Vô Thượng, Chánh Giác. Vì chẳng nhất định nên có thể đặng thành.

Như ông hỏi: Phật Tánh chẳng dứt, sao nhất xiển đề lại dứt căn lành?

Này thiện nam tử! Căn lành có hai thứ: Trong và ngoài. Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên chẳng dứt.

Căn lành lại có hai thứ: hữu lậu và vô lậu. Phật Tánh chẳng phải hữu lậu vô lậu nên chẳng dứt.

Lại có hai thứ căn lành: Thường và vô thường. Phật Tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường nên chẳng dứt. Nếu là những thứ bị dứt, thời trở lại đặng. Nếu chẳng trở lại đặng thời gọi là chẳng dứt. Nếu dứt rồi trở lại đặng thời gọi là nhất xiển đề.

Phạm bốn tội nặng, hủy báng đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cũng chẳng nhất định như vậy. Vì nếu nhất định thời những hạng này trọn chẳng thể đặng vô thượng bồ đề.

Sắc cùng tướng của sắc, hương, vị, xúc, sanh đến vô minh, ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi, bốn loài sanh, tất cả pháp cũng đều không có tướng nhất định.

Ví như nhà ảo thuật ở trong đại chúng biến hóa làm quân lính, chuỗi ngọc đồ trang sức, xóm làng, thành ấp, rừng cây, suối, ao, sông, giếng. Trong đại chúng có bọn trẻ thơ vì không đủ trí, nên lúc xem coi cho đó là thiệt. Người trí biết đó là hư dối, do sức ảo thuật làm lầm mắt người.

Tất cả phàm phu nhẫn đến Thanh Văn Bích Chi Phật, đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả pháp chẳng thấy tướng nhất định.

Ví như mùa hạ thấy ánh sáng dợn, trẻ thơ cho là nước. Người trí trọn chẳng nhận là nước thiệt, chỉ là ánh nắng gợn làm lầm mắt người.

Tất cả phàm phu Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả pháp đều cho là thật. Chư Phật Bồ Tát chẳng thấy có tướng nhất định.

Ví như khe núi, do tiếng mà có vang. Trẻ thơ cho là thiệt tiếng. Người trí hiểu là không thật, chỉ có tướng tiếng phỉnh dối nơi nhĩ thức.

Tất cả phàm phu Thanh Văn, Duyên Giác đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật Bồ Tát hiểu rõ đều không tướng nhất định, thấy là tướng vô thường, tướng không tịch, tướng không sanh diệt. Do nghĩa này, Đại Bồ Tát thấy tất cả pháp là tướng vô thường.

Này thiện nam tử! Cũng có định tướng, chính là thường, lạc, ngã, tịnh nơi quả Đại Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Quả Tu Đà Hoàn cũng chẳng quyết định, vì chẳng quyết định nên trãi qua tám muôn kiếp đặng Vô Thượng, Chánh Giác. Quả Tu Đà Hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua sáu muôn kiếp đặng Vô Thượng, Chánh Giác Quả A Na Hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua bốn muôn kiếp đặng Vô Thượng, Chánh Giác.

Quả A La Hán cũng chẳng quyết định, vì trải qua hai muôn kiếp đặng Vô Thượng, Chánh Giác. Bích Chi Phật cũng chẳng quyết định, vì trải qua mười ngàn kiếp đặng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Hôm nay Như Lai ở trong rừng Ta La Song Thọ nơi thành Câu Thi Na, thị hiện nằm dựa trên giường sư tử sắp nhập Niết Bàn, làm cho chúng đệ tử chưa chứng quả A La Hán cùng các lực sĩ rất lo rầu, cũng làm cho trời, người, A Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v… trần thiết đồ cúng dường.

Muốn khiến mọi người dùng ngàn bức vải lông vấn thân Như Lai, bảy báu làm quan tài, đựng đầy dầu thơm, chất những gỗ thơm để thiêu đó.

Chỉ trừ hai thứ chẳng thể cháy được: Một là y lót mình, hai là lớp vải vấn phía ngoài hết. Vì chúng sanh nên phân chia xá lợi làm tám phần. Tất cả hàng Thanh Văn đệ tử đều cho rằng Đức Như Lai nhập Niết Bàn. Phải biết Đức Như Lai cũng chẳng quyết định rốt ráo nhập Niết Bàn, vì Đức Như Lai thường trụ chẳng biến đổi. Do nghĩa này nên Đức Như Lai nhập Niết Bàn cũng chẳng nhất định.

Này thiện nam tử! Nên biết Như Lai cũng chẳng quyết định. Như Lai chẳng phải Thiên.

Có bốn hạng Thiên: Một là thế gian Thiên, hai là sanh Thiên, ba là tịnh Thiên, bốn là nghĩa Thiên.

Thế gian Thiên, lệ như các vị Quốc Vương. Từ Tứ Thiên Vương nhẫn đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng gọi là Sanh Thiên. Từ Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật gọi là Tịnh Thiên.

Thập Trụ Bồ Tát v.v… gọi là Nghĩa Thiên, vì có thể hiểu rõ nghĩa của các pháp, chính là thấy nghĩa không của tất cả pháp.

Này thiện nam tử! Như Lai chẳng phải Quốc Vương, chẳng phải Tứ Thiên Vương, nhẫn đến trời Phi Phi Tưởng, cũng chẳng phải Tu Đà Hoàn, Bích Chi Phật, Thập Trụ Bồ Tát. Do đây nên Như Lai chẳng phải Thiên. Mặc dù như vậy, nhưng chúng sanh cũng gọi Phật là Thiên Trung Thiên.

Vì thế nên Như Lai chẳng phải là Thiên cũng chẳng phải là chẳng phải Thiên, chẳng phải là người cũng chẳng phải là chẳng phải người, chẳng phải là quỷ, cũng chẳng phải là chẳng phải quỷ, chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Chẳng phải là chúng sanh cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là pháp cũng chẳng phải là chẳng phải pháp, chẳng phải là sắc cũng chẳng phải là chẳng phải sắc, chẳng phải là dài, vắn cũng chẳng phải là chẳng phải dài, vắn.

Chẳng phải là tướng cũng chẳng phải là chẳng phải tướng, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải là chẳng phải tâm, chẳng phải là hữu lậu, chẳng phải là vô lậu, chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, chẳng phải là thường, chẳng phải là vô thường.

Chẳng phải là huyễn hóa cũng chẳng phải là chẳng phải huyễn hóa, chẳng phải là danh cũng chẳng phải là chẳng phải danh, chẳng phải là định cũng chẳng phải là chẳng phải định, chẳng phải có không cũng chẳng phải là chẳng phải có không, chẳng phải ngôn thuyết cũng chẳng phải là chẳng phải ngôn thuyết, chẳng phải Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải Như Lai. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng quyết định.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần