Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Hai - Phẩm Như Lai Tánh - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM MƯỜI HAI
PHẨM NHƯ LAI TÁNH
PHẦN MỘT
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi có ngã cùng chăng?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được. Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng, tất cả người nhà không ai biết.
Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo cô gái nghèo: Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi.
Cô gái liền đáp: Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi sẽ dọn cỏ rác cho ông.
Người khách nói: Tôi biết cách thức, có thể chỉ kho vàng cho cô.
Cô gái nói: Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được, huống là ông mà có thể biết!
Khách lại nói: Nay tôi có thể biết chắc chắn.
Cô gái nói: Tôi gấp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi. Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng. Cô gái thấy kho vàng lòng rất vui mừng ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng người khách.
Này thiện nam tử! Phật Tánh của chúng sanh cũng như vậy, tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho vàng mà chẳng biết. Hôm nay ta chỉ bày Phật Tánh sẵn có của tất cả chúng sanh hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia trong nhà sẵn có kho vàng nhưng không thấy được.
Hôm nay Đức Như Lai chỉ bày kho báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật Tánh. Chúng sanh thấy được tánh này lòng rất vui mừng quy ngưỡng Đức Như Lai.
Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Như Lai. Cô gái nghèo dụ cho vô lượng chúng sanh. Kho vàng ròng dụ cho Phật Tánh.
Này thiện nam tử! Ví như cô gái sanh một trai trẻ này mắc bệnh, cô gái buồn rầu tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bệnh, dùng ba thứ bơ, sữa đường phèn hiệp lại bảo cho đứa trẻ uống.
Y sĩ dặn cho cô gái, đứa trẻ sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải chờ thuốc tiêu hóa, rồi mới được cho bú.
Cô gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa bé: Vú của mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ chạm đến. Đứa bé đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn chẳng dám gần. Thời gian sau thuốc uống đã tiêu hoá, người mẹ lấy nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú. Lúc đó đứa trẻ mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên chẳng dám đến bú.
Người mẹ bảo: Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng thoa trên vú. Thuốc con uống đã tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch, giờ đây con có thể đến bú không hại gì. Đứa trẻ nghe mẹ bảo lần lần đến bú.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai cũng vậy. Vì độ tất cả chúng sanh nên dạy tu pháp vô ngã. Nhờ tu pháp đó dứt hẳn tâm chấp ngã, được nhập Niết bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời nên thị hiện pháp xuất thế gian. Lại chỉ rõ quan niệm chấp ngã của người đời là hư vọng chẳng phải chân thật, nên dạy tu pháp vô ngã để được thân thanh tịnh.
Như cô gái kia chữa bệnh cho con, nên lấy chất đắng thoa trên vú. Cũng vậy, Đức Như Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp đều không có ngã. Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng vậy, Đức Phật hôm nay nói Như Lai tạng.
Vì thế nên các Tỳ Kheo chớ sanh lòng kinh sợ. Như đứa trẻ kia nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng vậy, các Tỳ Kheo nên tự phân biệt Như Lai tạng, chẳng được, chẳng có.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Thiệt không có ngã. Vì lúc đứa trẻ mới sanh không hiểu biết. Nếu là có ngã thời ngày mới sanh lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩ này nên định biết là không ngã.
Nếu quyết định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không hư hoại, sao lại có Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Chiên Đà La, súc sanh v.v… sai biệt nhau.
Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả chúng sanh lẽ ra không hơn kém. Do những nghĩa trên đây nên định biết Phật Tánh chẳng phải là pháp thường trụ.
Nếu cho rằng Phật Tánh quyết định là thường trụ, thời do duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu. Vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến.
Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rượu lại say mê.
Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.
Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, dao gươm, kẻ ác, thú dữ.
Nếu ngã là thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy lẽ ra chẳng quên.
Nếu chẳng quên cớ gì lại nói: Tôi đã từng thấy người này ở chỗ đó. Nếu ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành v.v… lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua.
Nếu ngã là thường, thời nó ở chỗ nào?
Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư! Nếu ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống.
Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt!
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Thiện Nam Tử! Ví như nhà Vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ này cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da.
Y sĩ hỏi lực sĩ: Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?
Lực sĩ kinh hãi đáp: Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư?
Nó rơi rớt ở đâu?
Nói xong lo rầu khóc lóc.
Y sĩ an ủi: Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngòai. Lúc các ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết. Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ.
Nghĩ rằng: Nếu hột châu ở dưới da, máu mũ chảy tuôn cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy.
Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta chăng?
Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực sĩ. Hột châu kim cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy, ngạc nhiên mừng rỡ.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì không được gần gũi bậc thiện tri thức, dầu có Phật Tánh mà đều không nhận thấy. Bị tham, sân, si che đậy. Vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A Tu La, Chiên Đà La, Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà.
Sanh vào trong các dòng đó, nhân tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt.
Thọ các quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si, che lấp bổn tâm, nên chẳng biết Phật Tánh. Như lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất.
Cũng vậy, chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện tri thức, chẳng biết bảo tạng Như Lai, nên tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải Bậc Thánh, dầu nói là có ngã, nhưng lại chẳng biết chân tánh của ngã.
Hàng đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bậc thiện tri thức, nên tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của vô ngã. Còn chẳng tự biết chân tánh của vô ngã, huống lại có thể biết chân tánh của ngã.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai nói các chúng sanh đều có Phật Tánh, ví như y sĩ chỉ hột châu kim cương cho lực sĩ, các chúng sanh này bị vô lượng phiền não che đậy chẳng biết Phật Tánh. Nếu dứt hết phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết rõ ràng. Như lực sĩ thấy hạt châu trong gương sáng. Tạng Như Lai vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là Dược vị. Thuốc đó rất ngọt, ở dưới lùm bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết chỗ đó chắc có thuốc ấy. Thuở trước có Vua Chuyển Luân ở nơi núi Tuyết này đặt những bộng cây để tiếp lấy thuốc.
Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào trong bọng cây, mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi Vua đã băng, thời thuốc đó hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của thuốc sanh ra mùi vị đều khác nhau.
Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không thể được. Lúc có Thánh Vương ra đời, vì phước lớn của Vua, liền đặng vị thật của thuốc.
Này thiện nam tử! Mùi vị tạng Như Lai cũng như vậy, bị các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh mê mờ chẳng thấy được. Dược vị trên kia dụ cho Phật Tánh. Bởi các phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị sai khác như là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Trời, Người, Nam, Nữ, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà v.v…
Phật Tánh hùng mãnh không thể hư hoại, vì thế nên không ai có thể sát hại được. Nếu sát hại được thời Phật Tánh dứt, nhưng Phật Tánh trọn không thể dứt, vì không bao giờ tánh có thể dứt được.
Như tánh của ngã tức là tạng Như Lai không có gì phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu không có thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể sát hại được.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nếu không ai sát hại được, thời lẽ ra không có nghiệp bất thiện?
Phật nói: Này Ca Diếp! Thiệt có sát sanh. Vì Phật Tánh của chúng sanh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm, gọi là sát sanh, đã có sát sanh, thời đọa ác thú.
Do nhân duyên của nghiệp mà có Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Chiên Đà La, nam nữ v.v… hai mươi lăm cõi sai khác lưu chuyển trong dòng sinh tử.
Người chẳng phải bậc Thánh vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng như vậy. Tướng của vọng tưởng không có chân thật. Tướng ngã xuất thế gian, gọi là Phật Tánh. Nhận lấy ngã này, gọi là rất lành.
Này thiện nam tử! Ví như có người giỏi biết kho báu dưới đất, liền lấy cuốc bén đào đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp kim cương thời không thể xoi thấu.
Luận về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể. Phật Tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, Thiên Ma Ba Tuần, cho đến các hàng Trời, người, không thể phá hoại.
Tướng ngũ ấm là hữu vi, tướng hữu vi dụ như đá, cát, sỏi, có thể đào, có thể xoi. Phật Tánh dụ như kim cương, không thể phá hoại được. Do nghĩa này, nên phá hoại thân ngũ ấm thời gọi đó là sát sanh.
Này thiện nam tử! Nên biết quyết định rằng Phật Pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Kinh Đại Thừa Phương Đẳng như chất Cam Lồ, cũng có lúc như thuốc độc.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Do nhân duyên gì mà Đức Như Lai nói Kinh Đại Thừa Phương Đẳng như chất Cam Lồ, cũng có lúc như thuốc độc.
Này thiện nam tử! Nay ông muốn biết nghĩa chân thật của tạng Như Lai chăng?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Tôi nay thiệt muốn biết nghĩa của tạng Như Lai.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Hoặc có người uống Cam Lồ.
Hại thân mạng mà chết sớm.
Hoặc có người uống Cam Lồ.
Thêm tuổi thọ sống được lâu,
Hoặc uống thuốc độc được sống,
Có người uống độc mà chết.
Trí vô ngại như Cam Lồ,
Đó chính là Kinh đại thừa.
Kinh Điển đại thừa như vậy,
Cũng gọi là chất thuốc độc.
Như bơ, Đề Hồ v.v…
Nhẫn đến các thứ đường phèn.
Uống vào tiêu hóa là thuốc.
Chẳng tiêu hoá thời thành độc.
Kinh đại thừa cũng như vậy,
Nơi người trí là Cam Lồ,
Kẻ ngu chẳng biết Phật Tánh.
Nghe đại thừa thành thuốc dộc.
Với bậc Thanh Văn, Duyên Giác.
Pháp đại thừa là Cam Lồ.
Cũng như trong các mùi vị.
Chất sữa là hơn tất cả.
Những người siêng năng tinh tấn.
Nhờ nương nơi pháp đại thừa.
Đặng đến nơi Đại Niết Bàn.
Thành bậc Vua trong loài người.
Chúng sanh chứng biết Phật Tánh.
Được chất Cam Lồ vô thượng.
Thời không sanh cũng không tử.
Như Ca Diếp Bồ Tát thảy.
Này Ca Diếp ông nên phải.
Khéo phân biệt pháp Tam Quy,
Thật tánh của pháp Tam Quy.
Thời là chân tánh của ngã.
Nếu có thể ngẫm xét kỹ.
Tánh của ngã có tánh Phật.
Nên biết những người như vậy.
Đặng chứng nhập tạng Như Lai.
Biết ngã cùng biết ngã sở.
Người này đã được xuất thế.
Tánh, Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo.
Là bậc đệ nhất vô thượng.
Kệ trên đây của ta nói.
Phật Tánh đó nghĩ như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát nói kệ bạch Phật:
Tôi nay đều chẳng biết.
Quy y nơi Tam Bảo.
Thế nào sẽ về đến.
Vô thượng vô sở úy?
Chẳng biết chỗ Tam Bảo.
Thế nào là vô ngã?
Quy y Phật thế nào,
Mà đặng nơi an ổn?
Quy y Pháp thế nào,
Xin Phật vì tôi nói.
Thế nào đặng tự tại?
Thế nào chẳng tự tại?
Quy y Tăng thế nào,
Lại đặng lợi vô thượng?
Thế nào thuyết chân thật,
Đời sau thành Phật Đạo?
Đời sau nếu chẳng thành,
Thế nào Quy Tam Bảo?
Nay tôi không dự biết,
Nên tuần tự quy y.
Thế nào chưa thai nghén,
Mà tưởng sẽ sanh con?
Nếu biết ở trong thai,
Thời gọi là có con,
Con nếu ở trong thai,
Chắc sẽ sanh chẳng lâu,
Đây gọi là nghĩa con,
Nghiệp chúng sanh cũng vậy.
Như lời Phật đã nói,
Người ngu chẳng biết được.
Do vì họ chẳng biết,
Luân hồi ngục sanh tử,
Giả danh Ưu Bà Tắc,
Chẳng biết nghĩa chân thật.
Xin Phật rộng phân biệt,
Dứt trừ lưới nghi cho.
Đức Phật trí huệ lớn,
Xin thương vì phân biệt,
Xin nói nơi Như Lai,
Tạng báu rất bí mật.
Ca Diếp ông nên biết,
Ta nay sẽ vì ông,
Khéo mở tạng bí mật,
Cho ông đặng dứt nghi,
Nay phải hết lòng nghe:
Ông trong hàng Bồ Tát,
Thời đồng một danh hiệu,
Với Đức Phật thứ bảy.
Người quy y nơi Phật,
Thiệt là Ưu Bà Tắc,
Trọn chẳng lại quy y.
Những Thiên Thần nào khác.
Người quy y nơi pháp,
Thời lìa sự sát hại.
Người quy y Thánh Tăng,
Chẳng cầu các ngoại đạo,
Quy Tam Bảo như vậy,
Thời đặng Vô sở úy.
Ca Diếp bạch Phật rằng:
Tôi cũng quy Tam Bảo,
Đây gọi là đường chánh,
Cảnh giới của Chư Phật,
Tướng Tam Bảo bình đẳng.
Thường có tánh trí huệ,
Tánh ngã và tánh Phật,
Không hai không sai khác,
Đạo này Phật khen ngợi,
Thẳng đến chỗ ở an.
Cũng gọi chánh biến tri.
Nên được Phật tán thán.
Tôi cũng đến Phật Đạo.
Của Đức Phật ngợi khen.
Là Cam Lồ tối thượng.
Các cõi chỗ không có.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba