Phật Thuyết Kinh đại Bi - Phẩm Mười - Phẩm Bố Thí Phước đức
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI BI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
PHẨM MƯỜI
PHẨM BỐ THÍ PHƯỚC ĐỨC
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bải Ngài A Nan rằng: Hãy nên biết rằng, những việc như thế ấy từ trồng các căn lành nhỏ nhặt mà khi mất không hư hoại cho đến phát tâm sanh một lòng tin, ta đã nói rằng những người này trước sau cũng sẽ chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn tịch diệt. Nghĩa ấy là vậy.
Lại cũng có thể thí dụ rằng: Làm cho nam tử nữ nhân có tâm thanh tịnh tinh sâu nguyện thiết, chuyển việc cung kính sanh ra tâm từ ái vui vẻ hoan hỷ, mừng rỡ.
Này A Nan! Giống như người câu cá được cá tại ao nước, ngồi bỏ lưỡi câu cho cá ăn nhằm. Tuy ở trong ao không chạy đâu được.
Vì sao vậy?
Vì những cá này bị dây ràng buộc. Tuy ở trong nước nhưng phải biết rằng cá kia phải lên bờ.
Vì sao vậy?
Vì cần câu này đều buộc vào gốc cây. Lúc ấy người câu mới chạy đến nơi, liền biết được cá. Dùng cá câu được bắt bỏ lên bờ, tùy ý xử dụng.
Như vậy đó A Nan! Tất cả chúng sanh từ nơi Phật và phát sanh tâm kính tín, trồng các thiện căn tu hành bố thí, cho đến phát tâm được một niềm tin. Tuy có lúc làm ác, không phải nghiệp thiện phải đọa địa ngục ngạ quỷ súc sanh và các nơi khổ sở. Nhưng nếu có Phật ra đời, Phật dùng tuệ nhãn thấy các chúng sanh, hành Bồ Tát thừa, hoặc Duyên Giác thừa, hoặc Thanh Văn thừa.
Vì các chúng sanh này đã trồng các căn lành và những chúng sanh này cũng đã đoạn những căn lành. Tuy những chúng sanh này đọa vào nơi thoái phần, các chúng sanh này ở tại Thắng Tiến phần.
Các chúng sanh này đã trồng các chủng tử nên được an trí vào nơi hiền thánh. Do nơi phước điền của Phật cho đến sự phát tâm, một lòng kính tin tu hành bố thí. Vì thiện căn này mà Chư Phật Thế Tôn dùng Phật nhãn để quán sát chúng sanh này đã phát tâm rồi.
Cho nên từ nơi địa ngục được ra khỏi. Ra khỏi ngục rồi liền đến bờ giải thoát. Sau khi giải thoát rồi, nhớ lại việc xưa tại nơi Phật đó đã trồng căn lành.
Sau khi nhớ nghĩ nói lời thế này: Như vậy đó! Bà Già Bà.
Như vậy đó! Tu Già Đà.
Phật bảo: Này Thiện Nam Tử! Vì căn lành này mà được quả báo lớn và lợi ích vô cùng. Từ nơi Đức Phật tu hành bố thí trồng các căn lành.
Này Thiện Nam Tử! Người cúng dường ấy sau khi lâm chung, không bị tổn hoại. Giả sử xa xôi cho đến trăm ngàn ức na do tha kiếp, chỉ cần một căn lành kia mà được Niết Bàn cho đến chứng quả Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Nói về người câu cá, dụ như kẻ phàm phu, ao nước dụ cho biển sanh tử. Lưỡi câu dụ cho nơi Phật mà trồng căn lành. Dây cột dụ cho tứ nhiếp pháp. Người câu cá dụ cho Phật Như Lai. Tùy ý dùng cá dụ cho Như Lai an trí chúng sanh nơi Niết Bàn quả.
Này A Nan! Như thế đó theo thứ lớp mà nên biết. Nếu cúng dường ruộng đất. Giả sử cho đến khi mất đi rồi, phước này không mất, cuối cùng không có giới hạn, tất nhiên vào quả Niết Bàn.
Này A Nan! Ta nay lại tạo thêm thí dụ khác. Nếu cúng dường đất đai được đệ nhất Niết Bàn cho đến Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh nào tham quả báo của thế gian, làm việc của thế gian, ái nhiễm vui buồn, ưa cầu của thế gian, nhưng nương nơi Chư Phật mà tu hành bố thí. Với căn lành này hồi hướng thì sẽ sinh vào cõi người Cõi Trời.
Lại có chúng sanh từ nơi Phật mà trồng các căn lành rồi nói lời rằng: Với thiện căn này nguyện ta đời đời kiếp kiếp vào chốn Niết Bàn, bất cứ nơi nào.
Vì sao vậy?
A Nan nên biết rằng Chư Phật là Vô Thượng phước điền, không có cỏ úa lại cũng chẳng có gai góc. Lìa xa sự ham muốn nhơ bẩn qua đến nơi thật thanh tịnh. Như thế trong các ruộng phước trồng các căn lành phước đức nhỏ và tại ruộng này không sanh Trưởng Giả, chỉ có ba loại Bồ Đề được làm hạt giống.
Đó là Vô Thượng Bồ Đề. Duyên Giác Bồ Đề và Thanh Văn Bồ Đề. Những căn lành này cuối cùng chẳng mất. Do sự phát tâm bố thí và kính tín mà làm tăng thượng duyên vậy. Được vào đường lành và các pháp thanh tịnh, có thể chứng nhập vào Niết Bàn.
Này A Nan! Dụ như Trưởng Giả lúc bán ruộng đất. Tại đất kia không có cỏ úa, không có gai góc và cũng chẳng có ngói sạn, đồ tải dơ bẩn mà chỉ sạch sẽ. Lấy hạt giống mới gieo vào, tất nhiên không hư không hại. Tùy vào thời tiết mà gieo giống xuống ruộng. Tùy theo thời mà tưới tẩm và tất cả lúc đều thường coi sóc gìn giữ.
Này A Nan! Khi vị Trưởng Giả làm như thế đó, có lúc đến thăm ruộng kia.
Ròi liền nói rằng: Thật là giống lành! Nếu không gieo xuống, làm sao sanh trưởng. Ta không cầu lợi lại không cầu báo.
Này A Nan! Nghĩa này thế nào?
Vì sao gọi là ruộng mà hạt giống không sanh, không làm vậy?
A Nan thưa: Không phải vậy Bà Già Bà! Không phải vậy Tu Già Đà! Nơi kia có quả. Nhưng không là quả thật.
Phật bảo: Đúng như vậy, như vậy đó.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh ưa đắm sanh tử vào nơi ba cõi mà nơi phước điền của Phật trồng được căn lành như thế thì với thiện căn này nguyện ta chưa nên vào Niết Bàn.
Này A Nan! Nếu người này chưa Niết Bàn, chẳng có nơi nào.
Này A Nan! Mà người này chẳng vui cầu Niết Bàn. Nhưng đã trồng căn lành nơi Chư Phật. Do vậy ta nói người này tất nhiên vào Niết Bàn và Vô Du Niết Bàn.
Này A Nan! Về đến đời sau có vị Vua nơi biên địa, tuy ông ta không thông hiểu công đức Phật Pháp. Nhưng khi thấy Tịnh Xá của Phật và hình tượng tâm sanh tin tưởng.
Ta từ trong quá khứ nhiều lần đã sanh trong năm đường, lúc tu tất cả các hạnh Bồ Tát như tứ nhiếp pháp gồm bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự nên đã nhiếp phục vua nơi biên địa kia.
Này A Nan! Vua nơi biên địa kia khi xem Tịnh Xá và hình tượng của ta tâm sanh kính tín. Vì căn lành này đương nhiên được Niết Bàn và sẽ vào Niết Bàn.
Này A Nan! Vua ở biên địa kia có các Đại Thần và Vương Tử phò trợ cùng với thân thuộc gần xa và bạn lữ ngay sau khi ta diệt độ đã nhìn thấy Tịnh Xá và hình tượng. Tuy không hiểu rõ về công đức của Chư Phật và chánh pháp của Phật. Nhưng trồng căn lành nhỏ này rồi phát tâm tin tưởng.
Ta vốn tu hành Bồ Tát hạnh lại cũng dùng tứ nhiếp pháp mà nhiếp hộ cho ông ta và vì thiện căn này mà được gia trì vậy, để vào Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Ta suốt canh thâu có lòng thương tưởng đến chúng sanh, dùng tứ nhiếp pháp suốt đên nhiếp thọ. Vì Phật pháp mà nuôi dưỡng tâm này.
Này A Nan! Khi thấy Như Lai trên đường hành đạo hay làm cho xứ cao hạ thấp xuống, người thấp lại cao lên. Cao thấp các nơi lại được quân bình. Sau đó Như Lai trở lại thì tất cả các cây đều hướng về Phật, Thần của cây hiện thân ra đê đầu đảnh lễ Phật.
Sau khi Như Lai đi rồi, cây lại hoàn phục. Trên đòi các phía cỏ cây héo úa hư thối, gai góc tòng lâm tất cả đều bị gạch ngói làm hư và tất cả đều được quét dọn. Nghiên trị sửa đổi sạch sẽ không có cỏ rác.
Hương thơm, mùi lạ bay đến khắp nơi, các hoa quả làm trang nghiêm đất này đẹp đẽ. Bàn chân Như Lai đạp lên đó mà đi.
Này A Nan! Hãy biết rằng Như Lai đã tu hành các công đức lành như trên hành trình ấy. Không có chúng sanh nào là không hướng về cúi đầu lễ tạ. Ngay cả các loài vô tình như đất đai, núi rừng, cây cỏ, thuốc men, từ nơi Pháp Phật không nơi nào là không hướng về.
Vì sao vậy?
Này A Nam! Ta vốn tu hạnh Bồ Tát và vì các thầy mình mà hướng về lễ bái, lại như cha mẹ thứ nhất, tôn trọng hướng về lễ bái. Những bậc thượng, trung, hạ thân hữu cốt nhục không đâu là không hướng về làm chỗ nương tựa nơi Phật là bậc thiện trí thức.
Thanh Văn Duyên Giác và cho đến ngoại đạo. Có năm thần thông như các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, như vậy tất cả đều thọ sự cúng dường.
Các Phật Bồ Tát và thiện tri thức. Thanh Văn Duyên Giác, ngoại đạo các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, cha mẹ anh em cùng cốt nhục liên hệ, các bậc thượng, trung, hạ hoặc đồng thầy đồng bạn không ai là không hướng về, khiêm hạ kính lễ.
Này A Nan! Ta đã làm những việc thiện như thế đấy! Cho đến quả Vô Thượng Bồ Đề và thành Phật. Cho đến các vật hữu tình hay vô tình. Khi Như Lai thực hiện thì không có nơi đâu là không đê đầu lễ bái.
Này A Nan! Ta đã từng thanh tịnh vi diệu xưng tán căn bản như thế và tự tay ta đã bố thí cho Sư Trưởng và tất cả chúng sanh.
Này A Nan! Đó là những nghiệp báo vậy. Khi Như Lai thực hiện thì đất đai bình đẳng, được quét dọn sạch sẽ trang nghiêm, thanh tịnh không có bùn dơ. Cũng chẳng có gạch ngói.
Này A Nan! Ta đã từ nơi vô lượng Đức Như Lai mà thực hành con đường Bồ Tát, Tri Thức, Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo, các Tiên v.v… Ta từ xưa đã từng quét dọn đường sá, lấy bùn đất để làm nhà, hoặc ở hoặc đi nơi Tịnh Xá Phật, ta đều dùng tâm bình đẳng, tâm không cao ngạo, không nịnh hót, tâm thanh tịnh, tâm tẩy trừ để được thanh tịnh.
Ở bất cứ lúc nào cũng cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì tất cả chúng sanh vậy. Cũng vì sự an lạc của tất cả chúng sanh, lại cũng vì lòng thương đối với tất cả chúng sanh, lợi ích an lạc Chư Thiên Nhân vậy.
Này A Nan! Đây là căn lành. Nếu các Đức Như Lai nơi nơi xứ xứ hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi, nếu có tư duy nhớ nghĩ đến việc làm này thì tự nhiên đường sá thanh tịnh, đất đai bằng phẳng.
Này A Nan! Như Lai có được những công đức về thân như thế. Thù thắng kho biết, không thể lường được.
Này A Nan! Ta nay vì muốn đầy đủ nghĩa này cho nên làm cho thanh tịnh lòng tin nơi các thiện nam và thiện nữ và từ chỗ Như Lai đã phát sanh tín tâm thâm hậu chưa từng có.
Này A Nan! Núi Tu Di cao đến tám mươi bốn ngàn do tuần. Trong biển lớn ấy cũng rộng tám mươi bốn ngàn do tuần.
Này A Nan! Giả sử ta diệt độ rồi, giống như núi Tu Di kiên cố này không thể thay đổi được, hà huống các núi đen, cạy cỏ, tòng lâm. Nếu mà không nghiêng, không có nơi như vậy.
Này A Nan! Núi Tu Di kiên cố như thế, chung quanh có núi Thiết Di cao mười sáu ngàn tám trăm do tuần. Núi này cũng kiên cố như kim cương. Khi Phật vào Niết Bàn thì không phải không quay về cúi đầu đảnh lễ. Cũng chẳng có người nào dầu xa xôi cũng không phải là không muốn hướng về. Không có nơi nào như vậy.
Vì sao vậy?
Này A Nan! Lúc ta tu hành hạnh Bồ Tát thì tất cả chúng sanh đều làm xong sự nghiệp, không có biệt ly. Nếu có chúng sanh nào tham si phát triển ta làm cho hòa hợp. Kẻ nào không chịu hòa, có thể làm cho hòa hợp, kiên cố an trụ đầy đủ không hoại. Tất cả đều sanh tâm từ và tâm thương xót.
Này A Nan! Đây là những căn lành có nguyên nhân vậy. Như Lai mất đi rồi thì thân thể cũng không thể hoại đi vậy. Cho đến quyến thuộc cũng kiên cố không hoại được.
Này A Nan! Như Lai cũng hộ trì cho quyến thuộc kiên cố không thể hoại pháp được. Nghĩa là bốn niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý, tóc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, Bát Thánh đạo phần.
Này A Nan! Ba mươi bảy phẩm trợ đạo này, đây là đại quyến thuộc của Như Lai. Cho nên các Chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác an trụ ở trong này. Tất cả thế gian, Trời người không thể hoại được.
Vì sao vậy?
A Nan thưa: Phật là Pháp của tất cả thế gian, Trời, Ma Phạm, Sa Môn, Bà La Môn và Chư quyến thuộc cùng với Người và A Tu La. Cùng với Tu Di sơn, núi Đại Thiết Vi, Đại Địa cùng cây cỏ, lúc Phật nhập Niết Bàn, tất cả đều cúi đầu hướng về, làm sao có thể phá hoại được. Nếu có kẻ phá hoại, cũng chẳng có nơi nào.
Vì sao vậy?
Này A Nan! Thân của Như Lai không thể phá hoại được. Xá Lợi của Phật cũng không thể phá hoại được.
Này A Nan! Như Lai thương tất cả chúng sanh cho nên theo bổn nguyện mà lưu lại Xá Lợi này giống như hạt giống, để làm cho Phật Pháp được tăng trưởng rộng rãi.
Này A Nan! Khi ta tu khổ hạnh, ta phát ra lời nguyện như vậy. Sau khi ta thành Phật rồi và khi vào Niết Bàn ta sẽ để Xá Lợi lại để làm lợi ích rộng rãi vậy.
Này A Nan! Theo lời nguyện của ta, sau khi ta diệt độ, hãy đem Xá Lợi mà lưu truyền rộng rãi. Các chúng sanh ấy khi thấy Phật nhập Niết Bàn liền chứng được Thánh Quả. Phật rất thương những người này. Vì thế nên phân Xá Lợi này như hạt cải.
Này A Nan! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vào Niết Bàn, lúc ấy cũng vẫn còn thương những chúng sanh ở thế gian. Khi nhập vào Tam Muội, Như Lai cũng định phân Xá Lợi nhỏ ra như hạt cải vậy.
Lúc ấy Như Lai không thọ bệnh khổ, tất cả chi tiết phân tán ra thì hay làm cho Xá Lợi giống như hạt cải. Lúc ấy Phật Như Lai chẳng có bệnh khổ gì cả.
Cho đến việc thương tưởng nhiếp thọ các chúng sanh ấy. Cho đến nhiếp thọ tương lai cho những chúng sanh này. Làm cho họ được an ổn nơi đường lành. Cúng dường Xá Lợi.
Tôn trọng nghinh rước, cung kính cúng dường. Mỗi mỗi trang nghiêm, mỗi mỗi hoa hương, xông hương, đốt hương, y phục, tràng phan cho đến các bảo cái, ca vũ âm nhạc. Ta nói rằng họ là những người sẽ chứng quả Niết Bàn cho đến vào Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Sau khi ta diệt độ một trăm năm tại thành Ba Li Phất có vị Quốc Vương tên là A Thâu Ca Sanh ra trong dòng dõi Khổng Tước dùng pháp để trị thế. Ông ta đã sinh tâm cung kính giáo pháp của ta. Sau khi kính tin rồi liền đem Xá Lợi của ta quảng bá ra nhiều hơn nữa. Mỗi ngày mỗi giờ đều tạo ra tám mươi bốn ngàn tháp để thờ Xá Lợi.
Này A Nan! Hãy đừng buồn lo nữa! Xá Lợi của ta đang có mặt khắp nơi trong Trời người.
Này A Nan! Những người hiện tại đang cúng dường Như Lai và sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi nhỏ như hạt cải của ta.
Này A Nan! Hoặc trong cơn mơ thấy Tịnh Xá Phật, tâm sanh kính tin. Ta nói người này, với căn lành ấy sẽ được vào Niết Bàn. Được đệ nhất Niết Bàn đến tận Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Ở đời vị lai khi có Chư Phật ra đời, không có vị nào là không tán thán công đức tu hành của ta cũng giống như ta hiện nay đang xưng tán công đức của Chư Phật trong quá khứ vậy. Chư Phật ở vị lai cũng xưng tán tên ta như vậy.
Này A Nan! Khi ta Thuyết Pháp, nếu có các chúng sanh, đều xa rời dơ bẩn được pháp nhãn thanh tịnh.
Này A Nan! Những chúng sanh này đã trồng sâu căn lành khi ta tu Bồ Tát hạnh, tất cả đều đã được thành thục.
Này A Nan! Nếu có cúng dường công đức cho Chư Tăng có hết đi chăng nữa thì cúng dường cho bốn phương Tăng công đức cũng như vậy. Cúng dường Bích Chi Phật công đức không cùng tận thì nơi Chư Phật công đức của người ấy cũng không thể cùng tận được.
Lại nữa A Nan! Như ta đã nói trước, các phước điền tự nó vốn tạo nên công đức, tất cả đều chứng Niết Bàn và vào Vô Dư Niết Bàn.
Này A Nan! Những người thân cận cúng dường cho ta, sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi của ta.
Này A Nan! Nếu có niệm Phật, cho đến có một cành hoa liệng vào trong không trung, ta từ mắt Phật mà nhìn thì kẻ này đã có căn lành, không thể so sánh, không thể nói nữa.
Này A Nan! Do từ nơi chúng sanh kia đã trồng căn lành và có tâm Phật cho đến cúng dường một cánh hoa, việc ấy cho đến cuối kiếp này lưu chuyển mãi trong kiếp sau. Từ đầu đến cuối khó thể biết được.
Lúc lưu chuyển như thế vì Như Lai mà phụng tán một cánh hoa, cũng chứng được quả báo khó thể nói, khó thể xưng dương được. Hoặc làm Vua Phạm Thiên, Vua Thích Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh, do căn lành này không bao giờ hết vậy, cho đến chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn vậy.
Vì sao vậy?
Này A Nan! Vì Chư Phật có thần thông lớn từ việc cúng dường một cánh hoa mà chứng được vô lượng phước báo, rộng khắp lợi ích và chứa nhóm nhiều công đức như vậy. Khó thể xưng tán, so sánh không thể cùng tận. Tức nhiên sẽ chứng vào cảnh giới Niết Bàn.
Này A Nan! Nếu có kẻ nào từ Chư Phật mà tạo ra công đức như vậy thì phải biết là phước báo ấy. Khó có thể xưng tán, so sánh được. Cho đến việc từ nơi Phật mà phát ra tâm sinh lòng tin, ta nói rằng kẻ này rốt ráo là người phạm hạnh, an ổn rốt ráo, cứu cánh rốt ráo vô cùng tận.
Này nữa A Nan! Nếu có người con trai hay con gái nào muốn cầu Vua Phạm Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh Vương, hộ thế Tứ Thiên Vương, Trời Cõi Thứ Ba Mươi Ba, Trời Dạ Ma, Trời Đẩu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại cho đến Chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thiết Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và không phải Người v.v…
Bậc nhất thiết thế gian chủ, chứng được tự tại, phải nên như vậy mà tôn trọng nghinh đón, cung kính cúng dường Chư Phật Thế Tôn.
Nếu muốn càu sanh nơi Cõi Thanh Văn, Cõi Bích Chi Phật, hoặc cầu Vô Thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề, những thiện nam kẻ thiện nữ này lại cũng như vậy cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường y phục, ẩm thực, giường nằm, chỗ ngồi, trị bệnh, lầm nhân duyên, cho thuốc.
Cho đến lúc đi, đứng, nằm, ngồi lại dùng cành hoa, tẩm hương, thoa hương, hương chiều đàn, nước trầm, tràng phan, bảo cái cúng dường các vị Phật này.
Sau khi Chư Phật diệt độ lại tạo lập Tháp Miếu các loại trang nghiêm cùng với hương hoa, hương bột, hương thơm, ca vũ, kịch vui cho đến trăm ngàn loại nhạc cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường vì lòng từ bi mà làm cho chúng sanh trong thế gian này vậy.
Lại cũng làm lợi ích an lạc cho Chư Thiên và loài người. Người chưa đắc độ sẽ được đắc độ. Người chưa giải thoát sẽ được giải thoát. Người chưa an ổn sẽ được an ổn. Người chưa Niết Bàn sẽ được Niết Bàn.
Này A Nan! Ta đã dùng năm cọng cây Ưu Ba La hoa để cúng dường Phật Nhiên Đăng, mà từ nơi Ngài, ta đã ngộ được vô sanh pháp nhẫn.
Những thiện căn như thế quả báo không phải là nhỏ.
Này A Nan! Ta đã từ nơi Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri và cúng năm cành hoa cho đến được những thiện căn phước đức như thế.
Các ngươi có muốn biết chăng?
A Nan thưa: Chúng con xin hoan hỷ để được nghe.
Như vậy Đức Bà Già Bà! Như vậy đó Đức Tu Già Đà! Ngay bây giờ kính xin Đức Thế Tôn phân biệt giải bày. Từ Phật Nhiên Đăng trồng căn lành này mà được quả báo.
Lúc ấy Đức Thế Tôn thư thả trạch vai phải có màu vàng rồi từ ngón tay nhỏ phóng ra mùi hương của hoa Trời Ưu Ba La, bay khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới Chư Phật. Trăm ngàn ức Mặt Trời, Mặt Trăng đang chuyển động không thể di chuyển.
Lúc ấy Đức Thế Tôn ở trong Trời người, A Tu La hiện việc kỳ lạ này chưa từng có, từ nơi thiện căn ở Chư Phật mà được phước báo nên đã thị hiện, không hư dối, không hao tổn.
Lúc ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ như vậy:
Chư Phật khó nghĩ bàn
Như Lai pháp cũng vậy
Hay làm cho người tin
Tất được nhiều báo tốt
Loài có tưởng hay không
Tất cả các chúng sanh
Vô lượng trăm ức kiếp
Tất cả nên cúng dường
Từ nơi Bích Chi Phật
Vô Lậu A La Hán
Không biết bao nhiêu kiếp
Cúng dường cho tất cả
Chánh Giác đang ở đời
Hoặc Phật Niết Bàn rồi
Cho đến một chắp tay
Phước này lớn hơn kia
Giới Phật không phá hoại
Tam muội được tự tại
Nơi pháp không nghi hoặc
Mắt Phật không giới hạn.
Nếu kẻ tu hành hạnh từ bi
Trong ngày hoặc đêm thời gian ít
Như vậy cúng dường phước không cùng
Ba cõi không sánh không có được
Trong quá khứ kiếp A tăng kỳ
Từ nơi Đạo Sư của thế gian
Trời người trong ấy làm ánh sáng
Tu các thiện nghiệp không kể hết
A tăng kỳ kiếp đang lưu chuyển
Thọ được phước báo không cùng tận
Ta do từ phước ấy lấy làm duyên
Hay được như vậy quả giác ngộ
Ta hay thương xót chúng sanh đây
Từ nơi trăm ngàn ức Đức Phật
Mười đời thường tu pháp cúng dường
Phật chẳng vì ta thọ ký riêng
Phật kia trong đời người trên hết
Biết ta thiện căn đã thuần thục
Tuy làm việc thiện không ghi lại
Cũng phải cố gắng kiên nhẫn vậy
Ta cũng đã gặp Phật Nhiên Đăng
Cúng dường năm cành Ưu Ba La
Dùng tóc che bùn Phật đạp lên
Tuế ngộ vô sanh chứng pháp nhẫn.
Lúc ấy Đạo Sư Phật Nhiên Đăng
Liền thọ ký ta, lên hư không
Nói rằng đời sau kiếp A tăng
Sẽ được thành Phật Hiệu Thích Ca
Từ đãy sanh tử lưu chuyển lại
Tu hành vô lượng các nghiệp lành
Thương chúng sanh thọ nhiều khổ não
Vì cầu vô thượng ngôi giác ngộ
Ta thấy thế gian quá cô độc.
Thương xót đoái hoài hay bố thí
Phước ấy không hạn, không lường được
Đạo Sư giảng nói không cùng tận
Ta vì Bồ Tát hạnh mà làm
Vì các Đức Phật mà thực hiện
Ngày đêm xưng danh và cúng dường
Vô lượng ức kiếp không tính được.
Một hai ba bốn năm đến mười
Hai mươi ba mươi lượt xưng tên
Vì thương chúng sanh mà tu hành
Cuối cùng vì Phật mà cúng dường
Như lúc ta đương tu khổ hạnh
Nhiều khổ vô cùng cũng nhẫn chịu
Mười đời không bỏ tâm bồ đề
Tất cả các Phật khó sánh được
Ta vì thế gian luôn lưu chuyển
Đã bỏ trăm ngàn vạn ức đầu
Đã bỏ đất đai cùng Vương vị
Vì cầu nghe pháp nói điều lành
Ta chỉ vì vô thượng chánh pháp thôi
Tâm ta vui cầu khó sánh được
Bố thí, trì giới và nhẫn nhục.
Tinh tấn giác ngộ đến bồ đề
Thế lực Chư Phật khó nghĩ bàn
Từ công đức ấy mà thành lập
Hay nói chánh pháp không ngừng nghỉ
Hay làm cho được chứng bồ đề.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Năm - Phẩm Không Tôi Ta
Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn - Phẩm Sáu Mươi - Phẩm điểm Dược Thành Tựu
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Bốn - Phẩm Ai Thán
Phật Thuyết Kinh Chư Pháp Dũng Vương - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh A Soa Mạt Bồ Tát - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Công đức Tăng Trưởng
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Tám - Phẩm Vô Sở đắc - Phần Mười Một