Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Và Mật Nhân Của Như Lai Về Chư Bồ Tát Vạn Hạnh để Tu Chứng Liễu Nghĩa - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Lạt Mật Đế, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH CỨU CÁNH

KIÊN CỐ VÀ MẬT NHÂN CỦA NHƯ LAI

VỀ CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH ĐỂ TU

CHỨNG LIỄU NGHĨA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Lạt Mật Đế, Đời Đường  

PHẦN MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thuở nọ, Đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Bhikṣu ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành phong Đức. Tất cả đệ tử của Phật đều là những bậc đại Ứng Chân vô lậu, khéo trụ pháp và trì pháp. Các Ngài khéo siêu việt các cõi và có thể thành tựu uy nghi ở mọi nơi đến. Họ theo Phật chuyển pháp luân và diệu kham nhận di giáo của Thế Tôn.

Nghiêm trì và thanh tịnh trong giới luật, họ là những bậc đại gương mẫu cho các chúng sanh trong ba cõi. Các Ngài ứng hiện vô lượng thân để độ thoát chúng sanh, bạt trừ và cứu độ những chúng sanh ở vị lai để họ vượt khỏi tất cả trần lụy.

Tên các Ngài là: Đại trí Thu Lộ Tử, Tôn Giả Đại Thải Thúc Thị, Tôn Giả Đại Tất, Tôn Giả Mãn Từ Tử, Tôn Giả Thiện Hiện, Tôn Giả Trần Tánh, và các vị khác như thế làm thượng thủ.

Lại có vô lượng bậc Độc Giác đã đạt đến quả vị Vô Học, cùng với những vị sơ phát khởi đạo tâm, cũng đồng đến chỗ của Phật và các vị Bhikṣu đang cư trú.

Khi ấy là vào ngày Tự Tứ, ngày cuối cùng của an cư mùa hạ, chư Bồ Tát trong mười phương đều tụ hội và mong muốn được chỉ dẫn để đoạn trừ lòng nghi. Tất cả đều khâm phụng Đức Từ Nghiêm, và chuẩn bị lắng nghe mật nghĩa của Phật.

Lúc bấy giờ Như Lai trải tọa cụ, ngồi tĩnh lặng an nhiên, rồi vì mọi người trong chúng hội mà tuyên thuyết pháp thâm áo. Tất cả đại chúng trong tiệc pháp được điều chưa từng có. Thanh âm của Đại Tiên như tiếng của chim diệu thanh và biến khắp tất cả Thế Giới trong mười phương. Chư Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng đều đến hội họp ở Đạo Tràng, với Ngài Diệu Cát Tường làm thượng thủ.

Khi ấy Vua Thắng Quân nhân ngày giỗ của cha nên đã thiết lễ chay trong vương cung. Nhà Vua thỉnh Phật và đích thân nghênh đón Như Lai, rồi dọn rất nhiều cao lương mỹ vị. Ngài cũng lại đích thân mời chư Đại Bồ Tát đến dự. Giữa lúc ấy ở trong thành, các trưởng giả và cư sĩ cũng chuẩn bị thức ăn cho chư Tăng, và họ đứng đợi Phật đến tiếp thọ cúng dường. Đức Phật bảo Ngài Diệu Cát Tường hãy phân phối chư Bồ Tát và những vị Ứng Chân đến tiếp thọ thức ăn chay cúng dường của các trai chủ.

Chỉ có Tôn Giả Khánh Hỷ, do trước đó nhận lời thỉnh riêng và đang đi xa chưa về, nên đã không kịp đến giữa lúc chư Tăng phân phối đi khất thực. Ngài một mình trên đường trở về và không có thượng tọa hay thầy giáo thọ đi cùng.

Vào ngày ấy, do chẳng có ai cúng dường nên khi đến giờ, Ngài Khánh Hỷ cầm bát, rồi đi vào thành khất thực theo thứ tự. Giữa lúc khất thực từ vị thí chủ đầu tiên cho đến vị cuối cùng, Ngài luôn tự nghĩ trong lòng sẽ nhận thức ăn từ mọi người, chẳng kể là từ Vua chúa tôn quý thuộc dòng dõi thanh tịnh hay những kẻ làm nghề mổ giết thuộc dòng dõi ô uế.

Với tâm thực hành bình đẳng và từ bi, Ngài chẳng hề kén chọn sang hèn, mà chỉ phát tâm viên thành để hết thảy chúng sanh được vô lượng công đức.

Tôn Giả Khánh Hỷ biết Như Lai đã quở trách Tôn Giả Thiện Hiện và Tôn Giả Đại Ẩm Quang, là những vị Ứng Chân mà tâm chẳng bình đẳng. Do vậy Ngài khâm tuân lời dạy của Như Lai về sự khất thực bình đẳng, và không để có người sẽ khởi lòng nghi hay phỉ báng.

Giữa lúc đi ngang qua cái hào của thành kia, Tôn Giả Khánh Hỷ đi chầm chậm ra cổng ngoài. Với uy nghi trang nghiêm tề chỉnh, Ngài cung kính tuân theo Pháp khất thực. Do bởi khất thực theo thứ tự, khi ấy Ngài Khánh Hỷ đi ngang qua một nhà điếm, và bất chợt bị trúng đại huyễn thuật.

Với sức mạnh chú thuật của Phạm chí Hoàng Phát đã cho rằng có được từ một vị Trời ở Phạm Thiên, một cô con gái thuộc bộ tộc Mātaṅga đã cám dỗ Ngài lên dâm sàng. Rồi cô ta áp sát vuốt ve cho đến khi giới thể của Ngài sắp phá hủy.

Biết Ngài Khánh Hỷ đang bị dâm thuật khống chế, Như Lai thọ trai xong thì liền quay về. Vì muốn nghe pháp yếu, Nhà Vua cùng các đại thần, trưởng giả, và cư sĩ đều đi theo Phật.

Lúc bấy giờ từ trên đảnh nhục kế, Thế Tôn phóng ra một trăm luồng ánh sáng báu vô úy. Trong quang minh xuất hiện một hoa sen báu ngàn cánh. Trên đó có một hóa Phật đang ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen và tuyên thuyết Thần Chú.

Khi ấy Đức Phật sắc lệnh cho Ngài Diệu Cát Tường mang Thần Chú này đến bảo hộ Tôn Giả Khánh Hỷ. Khi ác chú tiêu diệt, Diệu Cát Tường Bồ Tát đỡ Ngài Khánh Hỷ lên, rồi khuyên Ngài và cô gái cùng trở về chỗ của Phật.

Khi thấy Phật, Ngài Khánh Hỷ đảnh lễ và than khóc. Ngài hối hận vì từ hồi nào đến giờ chỉ chuyên hướng đa văn mà chưa hết mình tu tập Đạo lực. Tôn Giả ân cần khải thỉnh Đức Phật hãy thuyết giảng cho Ngài về những phương tiện tối sơ dẫn đến sự chứng đắc vi diệu của chỉ quán và thiền định mà chư Như Lai trong mười phương được thành Phật Đạo.

Giữa lúc ấy lại có số lượng Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng, cùng với các bậc đại Ứng Chân, Độc Giác, và những vị khác từ các Thế Giới trong mười phương, tất cả đều vui thích muốn nghe. Họ ngồi xuống và chờ đợi trong yên lặng để tiếp thọ thánh chỉ.

Lúc bấy giờ ở giữa đại chúng, Thế Tôn duỗi cánh tay sắc vàng và xoa trên đỉnh đầu của Tôn Giả Khánh Hỷ, rồi bảo Ngài Khánh Hỷ cùng các đại chúng rằng: Có một chánh định tên là Đại Phật Đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Vương Cụ Túc Vạn Hạnh. Nó là cánh cửa đặc biệt đến một con đường vi diệu trang nghiêm mà chư Như Lai trong mười phương siêu xuất thế gian. Ông nay hãy lắng nghe.

Ngài Khánh Hỷ đảnh lễ và chờ đợi thánh chỉ từ bi.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Ông và Ta đồng chung một dòng tộc, và chúng ta chia sẻ tình cảm thiêng liêng giữa thân tộc. Vào lúc đầu tiên khi phát tâm tu đạo, ông đã thấy tướng hảo thù thắng gì ở trong pháp ta mà khiến ông liền dứt bỏ ân ái thâm trọng của thế gian?

Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Khi thấy ba mươi hai tướng hảo thù thắng tuyệt diệu của Như Lai với thân hình ánh triệt tựa như lưu ly, con thường tự suy nghĩ rằng, các tướng hảo này không thể từ ái dục sanh ra.

Vì sao thế?

Bởi dục khí thô trược, tinh dịch của giao cấu tanh hôi, và máu mủ tạp loạn thì không thể sanh ra một thân thể thù thắng tịnh diệu với ánh sáng vàng tím kết tụ. Do đó con khát ngưỡng và cạo bỏ râu tóc để theo Phật.

Đức Phật bảo: Lành thay, Khánh Hỷ! Các ông phải biết rằng từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng sanh thọ sanh tử tương tục là do bởi đều chẳng biết thường trụ chân tâm và tánh tịnh minh thể. Thay vào đó, họ sử dụng các vọng tưởng. Do tâm tưởng này chẳng thật nên họ phải luân chuyển sanh tử.

Ông nay muốn nghiên cứu về đạo vô thượng để chân thật nhận ra bổn tánh trong sáng. Ông hãy nên trả lời câu hỏi của Ta với tâm chánh trực, bởi vì chư Như Lai trong mười phương thảy đồng đi qua con đường này để ra khỏi sanh tử. Do đều dùng tâm chánh trực và lời chánh trực như thế, cho nên trong suốt tiến trình tu tập từ quả vị đầu tiên cho đến cuối cùng, họ vĩnh viễn không gặp những khúc mắc.

Này Khánh Hỷ! Ta nay hỏi ông, khi nhờ duyên ở ba mươi hai tướng hảo của Như Lai mà ông sơ khởi phát tâm, ông đã thấy gì trong các tướng hảo đó, và ai là người yêu mến chúng?

Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con yêu mến chúng với tâm và mắt của mình. Do mắt con thấy các tướng hảo thù thắng của Như Lai nên tâm sanh yêu mến. Cho nên con phát tâm nguyện rời sanh tử.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Đúng như lời ông nói. Tâm và mắt của ông là nguyên nhân cho sự yêu mến đó. Nếu ai chẳng nhận biết tâm và mắt ở đâu thì sẽ không thể nào hàng phục được trần lao. Ví như khi đất nước bị giặc xâm nhiễu và Nhà Vua khởi binh dẹp trừ, những binh sĩ này trước tiên cần phải biết bọn giặc đang ở chỗ nào. Đây là lỗi của tâm và mắt mà khiến ông lưu chuyển sanh tử.

Ta nay hỏi ông, chính xác thì tâm và mắt của ông hiện đang ở đâu?

Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Mười loại chúng sanh ở tất cả Thế Giới tin rằng thức tâm của họ cư ngụ trong thân. Như con nhìn xem đôi mắt hoa sen xanh của Như Lai thì biết chúng là một phần trên gương mặt của Phật. Con nay xem xét mắt tai mũi lưỡi tiếp xúc với bốn trần và chúng đều thuộc ở trên gương mặt con. Do đó thức tâm chắc chắn cũng ở trong thân.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Như hiện tại ông đang ngồi trong giảng đường của Như Lai, ông có thể thấy Rừng cây Chiến Thắng.

Vậy nó bây giờ đang ở đâu?

Thưa Thế Tôn! Đại giảng đường Trùng Các thanh tịnh này ở tại vườn Cấp Cô Độc, và Rừng cây Chiến Thắng thật sự đang ở bên ngoài của giảng đường.

Này Khánh Hỷ! Bây giờ đang ở trong giảng đường, ông thấy điều gì trước tiên?

Thưa Thế Tôn! Con hiện đang ở trong giảng đường, trước tiên con thấy Như Lai. Tiếp đến con thấy đại chúng, rồi khi nhìn kỹ ra ngoài thì thấy viên lâm.

Này Khánh Hỷ! Tại sao khi nhìn kỹ ra ngoài, ông có thể thấy viên lâm?

Thưa Thế Tôn! Do những cánh cửa và cửa sổ của đại giảng đường này mở toát, nên con có thể ở trong giảng đường mà thấy được rất xa.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Đúng như lời ông nói. Tuy thân ở trong giảng đường nhưng bởi những cánh cửa và cửa sổ mở toát, nên họ có thể ngắm xa đến viên lâm.

Giả sử có người đang ở tại giảng đường này không thấy Như Lai, thế thì họ có thể thấy ở bên ngoài của giảng đường chăng?

Ngài Khánh Hỷ thưa rằng: Thưa Thế Tôn! Nếu ở tại giảng đường mà không thấy Như Lai thì làm sao có thể thấy khu rừng hay suối nước. Thật không có việc ấy!

Này Khánh Hỷ! Ông cũng như thế. Tâm của ông có thể hiểu rõ tất cả. Vậy nếu tâm hiện tiền của ông thông hiểu mọi thứ mà thật sự ở trong thân, thế thì nó phải biết rõ ở trong thân trước nhất.

Có chúng sanh nào thấy ở trong thân trước, rồi sau đó mới nhìn thấy cảnh vật ở ngoài chăng?

Cho dù nếu họ không thể thấy tim, gan, lá lách, hay dạ dày, thì ít nhất họ vẫn có thể nhận ra khi móng với tóc mọc dài, gân chuyển động, hoặc mạch đập.

Sao họ lại chẳng biết?

Nếu ở trong mà chẳng biết thì làm sao biết bên ngoài?

Cho nên phải biết rằng, điều ông nói là tâm hiểu rõ và phân biệt ở trong thân, thật không có việc ấy!

Ngài Khánh Hỷ cúi đầu và thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Nay con nghe Như Lai tuyên giảng Pháp Âm như thế, con tỏ ngộ ra rằng, tâm của con phải ở ngoài thân.

Tại sao con lại nói thế?

Ví như có một cây đèn được thắp sáng ở trong phòng thì nó chắc chắn phải chiếu ở trong phòng trước, rồi ánh sáng của nó sẽ chiếu xuyên qua cánh cửa và ra đến sân. Hết thảy chúng sanh không thấy ở trong thân mà chỉ thấy ở ngoài thân, việc đó cũng như ngọn đèn được đặt ở phía ngoài căn phòng, nên nó không thể chiếu vào trong.

Nghĩa lý này rất rõ ràng, tuyệt đối không nghi ngờ, và đồng với liễu nghĩa của Phật nên chẳng thể sai, đúng không ạ?

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Vừa rồi những vị Bhikṣu ở đây đã theo ta đến thành Phong Đức để khất thực theo thứ tự. Sau đó họ trở về Rừng cây Chiến Thắng, rồi vo tròn thực phẩm thành nắm rồi lấy ăn.

Ta đã thọ trai xong, nhưng ông hãy xem các vị Bhikṣu, nếu chỉ một người ăn thì mọi người có no chăng?

Ngài Khánh Hỷ thưa rằng: Dạ không, thưa Thế Tôn! Vì sao thế?

Tuy các vị Bhikṣu này đều là những bậc Ứng Chân, nhưng thân thể và lối sinh hoạt của mỗi người chẳng giống nhau.

Thế thì làm sao chỉ một người ăn mà có thể khiến mọi người đều no chứ?

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Nếu tâm của ông nhận thức rõ và thấy biết rằng nó thật sự ở ngoài thân, thì tâm và thân của ông sẽ tách rời và chúng không có liên quan gì với nhau. Thân sẽ không thể cảm nhận được những gì tâm biết, và tâm cũng sẽ không thể biết được những gì thân cảm nhận.

Ta nay đưa ra bàn tay mềm mại như bông gòn cho ông thấy, tâm của ông có khởi phân biệt khi mắt nhìn thấy chăng?

Ngài Khánh Hỷ thưa rằng: Dạ có, thưa Thế Tôn!

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Nếu mắt và tâm cùng nhận biết thì làm sao tâm có thể ở ngoài chứ?

Cho nên phải biết rằng, điều ông nói là tâm hiểu rõ và phân biệt ở ngoài thân, thật không có việc ấy!

Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy. Do con không thấy trong thân con nên tâm con không có ở đó. Do thân và tâm làm việc chung và chẳng tách rời nhau, nên tâm con cũng không ở ngoài thân. Nay con nghĩ đã biết nó ở đâu.

Đức Phật bảo: Thế thì nó ở đâu?

Ngài Khánh Hỷ thưa rằng: Thưa Thế Tôn! Bởi cái tâm hiểu rõ này không biết gì ở trong nhưng lại có thể thấy bên ngoài, theo sự suy nghĩ của con thì nó ẩn nấp trong con mắt. Ví như có người đặt những cái tách lưu ly ở trước con mắt của họ, tuy có vật ngăn che nhưng thị giác không bị chướng ngại.

Căn mắt có thể thấy và phân biệt tùy theo hoàn cảnh. Cũng vậy, tâm hiểu rõ và phân biệt của con không thấy ở trong là vì nó ở trong căn mắt. Nó có thể nhìn kỹ và phân biệt rõ ràng mà không bị chướng ngại là vì nó ẩn nấp trong con mắt.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Hãy cứ cho là tâm ẩn nấp trong con mắt như lời ông nói qua thí dụ về tách lưu ly.

Vậy khi người ấy đặt những cái tách lưu ly ở trước con mắt rồi nhìn sông núi, họ có thấy những cái tách lưu ly chăng?

Dạ có, thưa Thế Tôn! Người ấy thật sự có thấy những cái tách lưu ly khi đặt chúng ở trước mắt của họ.

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Nếu tâm của ông thật sự tương tự như thí dụ về tách lưu ly và nhìn thấy sông núi, tại sao ông lại không thấy con mắt của mình?

Còn nếu ông có thể thấy con mắt của mình, con mắt của ông sẽ đồng như cảnh vật bên ngoài, nên tâm và mắt sẽ không thể làm việc với nhau.

Nếu chẳng thể thấy, tại sao lại nói rằng cái tâm hiểu rõ này ẩn nấp trong căn mắt, như qua thí dụ về tách lưu ly?

Cho nên phải biết rằng, điều ông nói là tâm hiểu rõ và phân biệt ẩn nấp trong con mắt cũng tương tự như thí dụ về tách lưu ly, thật không có việc ấy!

Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay lại suy nghĩ như vậy. Nội tạng của chúng sanh ở bên trong, còn chín lỗ thì ở bên ngoài. Nội tạng che trong tối, còn chín lỗ thì có ánh sáng. Bây giờ ở trước Phật với hai mắt mở, con thấy ánh sáng và gọi đó là thấy ở ngoài. Thấy đen tối khi nhắm mắt lại, con gọi đó là thấy bên trong.

Nghĩa lý này có đúng chăng?

Phật bảo Ngài Khánh Hỷ: Lúc ông nhắm mắt lại và thấy đen tối, cảnh tượng đen tối này là ở trước mắt hay là chẳng phải ở trước mắt của ông?

Nếu sự đen tối ở trước mắt của ông, sao có thể nói là ở trong?

Cứ cho là nó ở trong, thì khi ông ở trong một căn phòng tối tăm chẳng có Mặt Trời, Mặt Trăng, hay đèn đuốc, cảnh tối tăm ở trong phòng phải là cảnh tối tăm ở bên trong của ông.

Còn nếu sự đen tối chẳng ở trước mắt ông, sao ông có thể thấy?

Cứ cho là ông có thể thấy ở trong bằng một cách khác hơn so với thấy ở ngoài, khi nhắm mắt lại và thấy đen tối thì gọi đó là thấy ở trong thân, rồi khi mở mắt thấy ánh sáng, tại sao ông chẳng thấy gương mặt của mình?

Nếu ông chẳng thấy gương mặt của mình thì không thể thấy bên trong. Nếu ông thấy gương mặt của mình thì cái tâm hiểu rõ này cùng với mắt sẽ ở hư không.

Thế thì làm sao chúng thuộc về thân thể của ông chứ?

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần