Phật Thuyết Kinh Phật Lên Trời đao Lợi Thuyết Pháp Cho Thân Mẫu - Phần Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
PHẬT LÊN TRỜI ĐAO LỢI
THUYẾT PHÁP CHO THÂN MẪU
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN NĂM
Thiên Tử lại thưa: Như Lai Chí Chân làm sao sinh ra?
Đức Phật bảo: Này Thiên Tử! Như Lai từ Trí tuệ độ vô cực sinh ra.
Nếu ai xem xét kỹ tới gốc ngọn, quá khứ, vị lai, hiện tại Chư Phật, thì ai là mẹ Chư Phật?
Họ sẽ biết rằng Trí tuệ độ vô cực là mẹ của Chư Phật.
Vì sao vậy?
Này Thiên Tử! Vì ba mươi hai tướng Đại Nhân chẳng nhờ Ma Da sinh ra. Nhờ học chân đế đại trí tuệ mới được như vậy, tự nhiên thành tựu thân của Như Lai. Mười lực, cũng không phải nhờ Vương hậu Ma Da sinh ra, vì lúc xưa nhờ phụng hành trí tuệ độ vô cực.
Nếu có được mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, cũng không phải nhờ Vương Hậu Ma Da sinh ra!
Đại Từ, đại Bi, vô kiến đỉnh và cái thấy không hư vọng, Phật nhãn, Phật tuệ, biện tài của Phật. Biết tâm niệm con người từ đâu sinh ra, thần túc quyền xảo…, những loại như vậy, không sao tính được, thảy đều nhờ trí tuệ độ vô cực sinh ra. Vì vậy Như Lai mới gọi là Phật. Các công đức ấy đều không nhờ Vương hậu Ma Da sinh ra.
Thiên Tử nên biết! Tất cả những thứ ấy đều nhờ Đại trí độ vô cực. Ông nên học và hành đạo phẩm này.
Như Lai nhờ đó mới đạt đến hình tượng ấy, mới có vô lượng Phật Pháp, mới mở rộng đức của Như Lai. Do nhân duyên đó nên gọi là Như Lai.
Cho nên, này Thiên Tử! Ông phải nên xem xét như thế này: Như Lai từ Trí tuệ độ vô cực sinh ra, không phải nhờ Vương hậu Ma Da sinh.
Thiên Tử lại thưa: Bạch Thế Tôn! Trí độ vô cực là pháp không có mẹ, nên không có chỗ sinh cũng không có chỗ diệt, sao Thế Tôn nói Trí độ vô cực sinh ra Như Lai?
Đức Phật bảo: Này Thiên Tử! Do pháp ấy, nên mới gọi là Như Lai. Pháp ấy vốn không có sinh, cũng không có sự kết thúc. Nó chẳng sinh, chẳng diệt, nó không có sinh, trọn không có kết thúc, không khởi, không diệt. Vì nó không có sắc pháp, nên phải do Trí độ vô cực sinh ra. Vì vậy nên gọi Trí độ vô cực sinh ra Như Lai. Cái sinh ra ấy, hoàn toàn không chỗ sinh, cũng không kết thúc, cũng không chỗ khởi lên.
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Cái không sinh, không biến mất, không khởi, không diệt ấy. Gọi là nơi chốn của Trí tuệ độ vô cực. Trí tuệ độ vô cực ấy, như có chỗ sinh, như có chỗ để hành. Nhưng Trí độ vô cực ấy, chưa từng có sinh, cũng không chỗ hành.
Thiên Tử lại thưa: Bạch Thế Tôn! Trí tuệ có tưởng, có phân biệt, mà nương vào trí tuệ, như có sự sinh, như có sự hành chăng?
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Trí tuệ không tưởng, cũng không phân biệt. Giả sử trí tuệ mà có tưởng, có phân biệt, thì không có việc thực hành trí tuệ.
Vì sao?
Vì người có sự tưởng nhớ, có sự thấy thì sẽ không thể hành. Nếu đối với trí tuệ mà không chỗ tư tưởng, không chỗ phân biệt, người ấy mới được gọi là phụng hành trí tuệ.
Thiên Tử lại hỏi Đức Thế Tôn: Sao gọi là y nơi hành?
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Người y nơi hành, nếu không có lời nói để nắm giữ, vậy lấy gì để y?
Đức Phật lại nói: Này Thiên Tử! Nói không nắm giữ ấy là vì buông xả sự sinh của ba cõi. Người ôm giữ lời nói, tức sẽ không lìa sự sinh của ba cõi.
Cho nên, này Thiên Tử! Mở bày giảng nói giáo pháp này thì không có lời nắm giữ, làm gì có y nơi hành mà sinh ba cõi, khiến có sự nương tựa?
Thiên Tử lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vì các hàng Thanh Văn mà giảng thuyết Kinh Pháp để thoát khỏi ba cõi?
Đức Phật bảo Thiên Tử: Ta vì hàng Thanh Văn Thuyết Kinh Pháp, nói về nhân duyên ở Cõi Dục, nhưng thân của Như Lai không có ở Cõi Dục.
Diễn nói Kinh Điển cho các Thanh Văn ở Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc, nhưng Như Lai thì không ở Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc và cũng không chỗ độ thoát, nhưng chúng Thanh Văn vẫn được độ thoát ở Cõi Dục. Phật cũng không có ở Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc, nhưng chúng Thanh Văn vẫn được độ thoát, vượt khỏi Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc.
Lại nữa, này Thiên Tử! Không đạt được ba cõi, nên không nương vào ba cõi, chấp nơi pháp không vô nhu thuận, nên không hiện ở ba cõi. Ở trong ba cõi mà không chỗ mến mộ, sinh nơi ba cõi cũng không chỗ sinh, không biết chỗ đi về.
Này Thiên Tử! Muốn biết thế nào là độ thoát?
Lời dạy của Thánh Hiền chỉ là giả nói thôi. Suy xét nơi chánh nghĩa, thì không có sự độ thoát, không có qua có lại.
Vì sao?
Vì xét xem tất cả pháp, thì không có sự độ thoát. Ví như hư không, rốt ráo, tự nhiên, không có sự sinh cũng không chỗ chấp, không có tác giả, cũng không chỗ có, cũng không phải không có. Xem tất cả pháp, cũng nên như vậy.
Khi Đức Thế Tôn nói lời này xong, có bảy vạn hai ngàn các Thiên chúng, xa lìa trần cấu, sinh các Pháp nhãn. Một vạn sáu ngàn Thiên Tử, đời trước đã gieo trồng gốc đức, nên nay thảy đều phát đạo ý vô thượng chánh chân.
Bảy ngàn Bồ Tát đầy đủ gốc đức, nên được gốc đức pháp Nhẫn bất khởi. Nhờ oai thần của Phật, khiến cho trên áo của họ tự nhiên có hoa.
Việc xưa nay chưa từng có! Họ đều lấy hoa đó cúng dường Đức Như Lai. Ngay khi đó, các hoa ấy trải khắp nơi trên Cõi Trời Đao Lợi.
Bấy giờ, Thiên Đế đến trước Đức Phật, bạch: Con chưa từng thấy những loại hoa như vậy, được các tộc tánh tử phụng cúng Đức Như Lai.
Khi ấy, Thiên Tử Nguyệt Thị nói với Thiên Đế Thích: Này Câu Dật! Hãy lắng nghe, các hoa hiện tung lên cúng dường Đức Như Lai, nhưng mọi người chưa từng thấy được vị Thánh tôn ấy.
Vì sao?
Vì nếu nhờ tâm, thấy được Đức Như Lai, thì tâm ấy đã diệt theo quá khứ nên không thể thấy.
Cho nên, này Câu Dật! Cái thấy được ấy, cũng như tất cả các pháp đều vốn không, vốn không thể thấy.
Thiên Tử lại hỏi: Này Câu Dật! Nay Ngài có thấy Như Lai chăng?
Đáp: Có thấy.
Này Câu Dật! Hãy xem xét đi! Giả sử Như Lai có sắc hữu vi, thì mới có thể thấy. Giả sử Như Lai có tư tưởng, bệnh tật, thức, sinh tử thì ta thấy được. Còn Như Lai là không sắc, thọ thống, tưởng, hành, thức thì cũng không hợp hội, cũng không sở hữu. Nếu ta có tưởng về pháp năm ấm cũng sẽ không có tưởng, sẽ không thể quán sắc.
Thiên Tử lại quay về phía Câu Dật nói: Ngài thấy Như Lai chăng?
Đáp: Như hiện nay, Như Lai thấy thân tôi vậy. Tôi thấy Như Lai cũng giống như vậy.
Lại hỏi: Này Thiên Tử! Thế nào là Như Lai thấy thân Ngài?
Thiên Tử đáp: Đức Như Lai đang đứng phía trước, Ngài cứ tới mà hỏi.
Khi ấy Thiên Đế Thích liền bạch Phật: Thế Tôn thấy Thiên Tử bằng cách nào?
Đức Thế Tôn bảo: Không dùng sắc để thấy. Không dùng thức, sinh tử, tư tưởng, khổ, thống để thấy. Không thấy quá khứ, tương lai và hiện tại. Cũng không dùng pháp phàm phu để thấy. Cũng lại không lìa pháp phàm phu để thấy.
Không thấy sự học và cùng không học. Cũng không học thành rốt ráo các pháp. Không thấy pháp La Hán, không thấy Thanh Văn, cũng không thấy địa vị Duyên Giác, không Duyên Giác địa. Sự thấy của Phật là như vậy. Nếu ai xem xét như vậy gọi là chánh quán. Nếu ai chánh quán, sẽ không có cái thấy, vì không có cái thấy nên quán đó bình đẳng, không phải tà quán.
Này Câu Dật! Nếu muốn biết sự quán sát của Như Lai, đó là như vậy, vốn không khác. Người quán như vậy, thấy biết tất cả. Gọi là quán sát kỹ lưỡng tất cả. Cho nên Như Lai được gọi là Phật. Nên cái mà Như Lai phát triển không hoại pháp giới.
Ý ông thế nào?
Như Lai thấy pháp như vậy là thấy những gì?
Thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy, Như Lai không thấy danh hiệu, cũng không có sắc, đối với sự xét xem như vậy, sẽ không có pháp số, không có sự hưng tạo.
Lại hỏi rằng: Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Sự thấy của Đức Phật là như vậy.
Thiên Tử Nguyệt Thị thấy cũng như vậy chăng?
Đức Phật nói: Này Câu Dật! Nếu ai đạt được hạnh pháp nhẫn bất khởi của Bồ Tát. Thì đối với các cõi pháp, tùy thuận mà trụ, pháp không thấy pháp nên không sở hữu, đó là pháp tự nhiên.
Lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Thiên Tử Nguyệt Thị được pháp nhẫn chăng?
Phật bảo Câu Dật: Ông nên tự hỏi Thiên Tử Nguyệt Thị thì sẽ rõ.
Bấy giờ Thiên Đế hỏi Nguyệt Thị: Này Nhân giả! Ngài đã được pháp nhẫn bất khởi chăng?
Thiên Tử đáp: Ý của Câu Dật không từ đâu sinh, vậy có phát khởi chăng?
Đáp: Không có.
Lại hỏi: Nếu không từ đâu sinh, sẽ không có phát khởi, thì làm sao được pháp nhẫn bất khởi?
Tất cả cõi pháp đều không có chỗ khởi, nên mới nói như vậy. Pháp giới ấy không khởi, không diệt, cũng không nắm bắt.
Khi ấy, trong tâm Đế Thích, tự nhiên suy nghĩ: Như hiện nay, Thiên Tử có sự giảng thuyết, là nhờ đạt được pháp nhẫn bất khởi, là nhờ gần kề đạo vô thượng chánh chân chăng?
Thiên Tử Nguyệt Thị biết những suy nghĩ trong tâm của Đế Thích, nên bảo Đế Thích: Này Câu Dật! Ông muốn được pháp nhẫn, không phải là gần gũi đạo vô thượng chánh chân. Nếu không khởi pháp nhẫn mới có thể gần kề đạo vô thượng chánh chân.
Lại hỏi: Này Thiên Tử! Vì sao Ngài nói như vậy?
Đáp: Nếu có sự nắm bắt, liền rơi vào điên đảo, nên cũng không có sự nắm bắt. Cái đạo tâm ấy không thể thành Chánh Giác, vì không khởi sự nhẫn, nên nói không từ đâu sinh. Cái không khởi lên ấy, mới thành Chánh Giác.
Lại hỏi: Này Thiên Tử! Làm sao cầu được đạo?
Đáp: Này Câu Dật! Cái đạo tâm ấy, nên lấy thân tự nhiên của mình để cầu.
Lại hỏi: Cái thân tự nhiên của mình, lấy gì để cầu?
Đáp: Pháp ấy không sinh, cũng không có người sinh, cũng không chỗ sinh, nên theo đó mà cầu. Nên tạo sự mong cầu ấy, cầu như, cầu ý, không cần danh xưng, nên không chỗ cầu, sẽ không có chỗ cầu, sẽ không có chỗ trụ.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích bạch Đức Phật: Thật là điều chưa từng có, thưa Thiên Trung Thiên! Thiên Tử Nguyệt Thị thâm nhập trí tuệ, cao xa không hạn lượng kết thúc nơi đâu, mà sinh ở đây, nơi đây mất rồi, sẽ sinh nơi đâu?
Thiên Tử Nguyệt Thị đáp: Này Thiên Đế! Giả sử người huyễn do sự biến hóa mà thành nam hay nữ, chấm dứt từ đâu mà sinh đời này, nơi này chấm dứt sẽ sinh về đâu?
Đáp: Người biến hóa chẳng đi về đâu, cũng không có sự chết.
Vì sao vậy?
Người biến hóa không có tư tưởng.
Đáp: Này Câu Dật! Giả sử nó không có tưởng, làm sao người huyễn hóa có thể đi đến chỗ khác. Mất ở đây, sinh ở kia. Mất ở chỗ này, sẽ sinh ở chỗ khác.
Hỏi: Nếu nó có suy nghĩ, thì chẳng phải là kẻ có trí sáng làm trò vui cho đời.
Đáp: Đúng như vậy, này Thiên Tử! Đúng như ông nói. Ngay khi Câu Dật thưa hỏi, cũng lại như vậy.
Tất cả các pháp, thảy đều như huyễn, nên mới hỏi Đức Như Lai: Hôm nay đây, Thiên Tử, mất ở nơi nào mà sinh ở đâu, rồi đi về đâu?
Ý ông thế nào?
Vì đã như huyễn, như hóa thì làm gì có đi có lại, há lại có thể thấy được cái đã mất đi chăng?
Thưa: Dạ không!
Hỏi: Do biến hóa ra, mà muốn có sự hưng khởi, có sự tạo tác chăng?
Thưa: Không có sự tạo tác.
Phật nói: Đúng vậy! Ai hiểu rõ, tất cả các pháp đều như huyễn hóa, thì có thể thị hiển sự đến, đi, mất, còn. Tuy họ hiện ra điều đó, nhưng không có sự tưởng nhớ, cũng không có chỗ để tạo ra.
Ý ông thế nào?
Khi ở trong mộng mà thấy sắc, hoặc nghe tiếng, mũi ngửi mùi thơm, miệng biết vị, thân chạm vật trơn mịn, tâm hiểu biết pháp.
Vậy có thể cho rằng, chúng thật có chăng?
Thưa: Dạ không.
Thiên Tử nói: Như vậy, này Câu Dật! Ai hiểu rõ các pháp là như mộng, như tự nhiên, thì dù có thấy nghe, tâm đối với pháp vẫn không có sự nhiễm ô, cũng không lìa trần cảnh. Cũng không mong cầu. Cũng không sầu lo. Cứ như pháp được nghe, thảy đều phân biệt để nói cho người khác nghe. Đối với tất cả tiếng nói ấy cũng không chỗ chấp giữ.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích đến trước Đức Phật, bạch: Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Thiên Tử Nguyệt Thị không có sự sinh, không mất, không còn. Vậy lấy nghĩa gì, mà khai hóa chúng sinh. Vì chúng sinh có sinh, nên phải có kết thúc. Trong địa vị Thanh Văn, không sinh không mất, cái không sinh, không mất ấy, chẳng phải là địa vị của Bồ Tát.
Vì sao Bồ Tát tu hành, phải ở trong sinh tử, trải qua vô số ức trăm ngàn kiếp?
Đức Phật bảo Thiên Đế: Có Bồ Tát đã được thành tựu pháp nhẫn bất khởi, không nghĩ đến sự sinh và sự kết thúc. Giống như La Hán đã diệt độ, mà vẫn còn tồn tại đến cả trăm năm.
Vì sao vậy?
Quán sát Bồ Tát, cũng lại như vậy. Bồ Tát ấy không có tưởng tôi, ta, không có tưởng về người khác. Việc làm của Bồ Tát còn vượt xa hơn nữa, không nghĩ về sự sinh, không tưởng đến sự kết thúc, không có tưởng về tôi, ta, về người khác. Tất cả đều được diệt độ, tất cả các pháp không có gốc ngọn.
Nếu ai không hiểu pháp này, sẽ không giác ngộ. Bồ Tát đại bi dù trải qua vô số kiếp, đến cả hàng ức trăm ngàn năm, rong chơi nơi khởi đầu và kết thúc, vẫn không mệt mỏi.
Ví như có người nam, ở ngã tư đường, đốt cháy một ngôi nhà lớn chẳng hề thương tiếc. Người thực hành lòng đại bi, cũng lại như vậy. Không tiếc thân mạng, ở trong năm thứ dục lạc mà vất bỏ chúng. Vất bỏ dục lạc như lánh xa đống lửa lớn, ở trong lửa ấy mà có thể nhẫn chịu được hết, thì thân họ không bị thiêu đốt.
Ý ông thế nào?
Việc người ấy làm có khó không?
Thưa: Rất khó, bạch Đấng Thiên Trung Thiên!
Đức Phật nói: Này Câu Dật! Việc làm của Bồ Tát, còn khó hơn như vậy, vượt qua tất cả các ham muốn xấu của cõi trần, mà hiện ra đời, để giáo hóa quần chúng. Vì vậy, phải nên xem xét Bồ Tát Đại Sĩ là bậc đã vượt qua khỏi tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Đạt được đạo vô thượng chánh chân, thành bậc Chánh Giác cao tột.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Không Gián đoạn
Phật Thuyết Kinh Tùy Cầu Tức đắc đại Tự Tại đà La Ni Thần Chú - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ha Lê - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Ba - Pháp Hội Phật Thuyết Nhân Xử Thai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Ba - Phẩm địa Ngục - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Hưng Khởi Hạnh - Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên đề Bà đạt đa đôi đá