Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đảnh Vương - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẢNH VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẦN NĂM  

Pháp ấy không thủ đắc

Biết thực hành chánh pháp

Chẳng dùng thức biết pháp

Tự nhiên, không thật có.

Nếu biết được hành này

Tâm Bồ Tát kiên cố

Thực hành Đệ nhất nghĩa

Thế gian không đạt tới.

Chúng hội không sánh bằng

Vì chúng mà thuyết pháp

Bồ Tát tuy giáo hóa

Không chấp vào chúng sinh.

Đức Phật lại bảo Đồng Tử Thiện Tư: Tất cả các pháp giống như huyễn hóa, huyễn hóa vốn không nên đều không thật có. Người đời mê lầm, tự chấp thân mình và thân người khác đều là thật có.

Do nơi có nên chìm đắm trong năm đường, nếu có thể hiểu được thì không còn lo sợ.

Nguồn gốc của các pháp không có trong ngoài, nhờ hiểu rõ như vậy nên tâm không khiếp sợ, không bị nạn nơi ba cõi, ba cõi thảy đều không. Nếu có Bồ Tát hiểu được gốc không này, thì dù một mình trong ba đời mà không hề bị nạn. Thấu rõ về sinh tử cũng như hư không, không hình tướng, cũng không tên gọi.

Tất cả các pháp cũng không có hình tướng và tên gọi như vậy. Do vô minh nên giong ruổi trong ba cõi, lưu chuyển mãi không ngừng. Giống như năm việc ở giữa hư không, không thể làm cấu uế, tự nhiên như vậy nên tâm thanh tịnh.

Nếu quyền biến chưa thông thì bị ba độc, năm ấm, sáu trần ngăn che. Tuy có phải trái, nhưng gốc tịnh không bị cấu nhiễm, tâm thường mở mang, thông suốt nghĩa không của ba đời nên hội nhập vào đạo lớn.

Phật liền nói kệ:

Chúng sinh như huyễn hoa

Huyễn ấy không thật có

Người giảng thuyết như vậy

Vĩnh viễn không sợ hãi.

Thân mình và thân người

Cả hai đều vắng lặng

Nếu hiểu được như vậy

Thì không còn lo sợ.

Các pháp trong lẫn ngoài

Không chấp có hiện hữu

Tâm không còn khiếp sợ

Không gặp nạn thế gian.

Các pháp không ngăn ngại

Như đi vào hư không

Chỗ đến như hư không

Pháp ấy là như nhiên.

Nếu hiểu được như thế

Bồ Tát dứt lo sợ

Phân biệt tất cả pháp

Hiểu rõ hành chúng sinh.

Không chấp vào chúng sinh

Pháp ấy đều như vậy

Đem phân biệt các cõi

Các cõi không thật có.

Đó là vào đường đạo

Gọi là đạo vô thượng

Do đạt được nghĩa này

Biết tâm hành chúng sinh.

Các cõi và chúng sinh

Cả hai không thật có

Do nhớ nghĩ như vậy

Nên hiểu tất cả pháp.

Các việc trong lẫn ngoài

Không tưởng cầu hòa hợp

Do vì không bỏ pháp

Mới gọi chân bản tế.

Pháp ấy không nghĩ bàn

Nên gọi là pháp Phật

Đây tất không thật có

Nên cũng không hình thành.

Thực hành được như vậy

Số người không bao nhiêu

Dùng trí tuệ vô vi

Mới gọi trí tuệ Phật.

Thừa sự vì đại chúng

An ổn khap tất cả

Không lo sợ thế gian

Vì đời không thật có.

Ở trong Thế Giới này

Hoặc các Thế Giới khác

Nẻo hành của Bồ Tát

Cầu đạt tuệ vô thượng.

Pháp ấy là sâu xa

Pháp Phật không nghĩ bàn

Nếu pháp không thủ đắc

Tức là gần Phật Đạo.

Chư Phật và Kinh pháp

Tất cả đều là không

Nếu thực hành như vậy

Sẽ được gần Phật Đạo.

Do thực hành như thế

Người đời không thể sánh

Tâm kia không đắm vướng

Mới gần gũi Phật Đạo.

Đức Phật lại bảo Đồng Tử Thiện Tư: Nếu có Bồ Tát nghe được pháp sâu xa này, hoặc thọ trì, đọc tụng, tâm không sợ hãi, khéo mặc áo giáp thệ nguyện, tâm như kim cang, đến nơi gốc cây Bồ Đề ngồi chốn Đạo Tràng, nhập vào cảnh giới của Phật.

Đạt được Pháp Môn giải thoát chí chân vô ngại, quán pháp vô vi, không chỗ hòa hợp, đến cảnh giới Chư Phật trong mười phương tu tập đại từ bi rộng lớn, thành tựu mười tám pháp Bất cộng của Chư Phật.

Trí tuệ nơi ba đời của Chư Phật sáng như Mặt Trời, Mặt Trăng, phước đức không ai sánh bằng, trí tuệ vượt hư không, ánh sáng của đạo rực rỡ không gì có thể ví dụ được, đạt đến trí tuệ vô thượng, vô kiến đảnh tướng.

Nếu có người nghe được Kinh Điển vô hạn này, rồi đem nghĩa lý sâu xa trong ấy giảng thuyết cho người tin hiểu, ưa thích, thì nên biết người ấy trong quá khứ đã từng gặp Chư Phật không thể tính kể.

Lại có người không khinh mạn, đùa cợt, Đức Phật quán xét biết được người ấy vốn đã sớm tin hiểu Kinh này, thì từ lâu thấy được Như Lai.

Nếu người không ưa thích, tin hiểu Kinh Điển ấy, nghe rồi thì sinh đùa giỡn tức là kẻ phóng túng, là đám dị học của ngoại đạo, là các ma và quyến thuộc của chúng. Nếu người tin hiểu pháp này tức là đệ tử của Phật, Phật là thầy của họ, được Phật sẽ gần gũi cho xuống tóc làm Sa Môn.

Còn những kẻ bất tín kia là ngoại đạo, tà nghiệp, gồm chín mươi sáu tà phái, dị học.

Khi ấy, Đức Phật nói kệ:

Thấy Phật bên gốc cây

Hành Đạo Tràng chân thật

Người không tin Phật Đạo

Trí tuệ không thể đạt.

Pháp ấy không ngăn ngại

Rốt ráo không thủ đắc

Hiểu pháp không xứ sở

Đó gọi là giải thoát.

Ý vào nơi Thánh tuệ

Vua của tất cả pháp

Các pháp và tuệ đạo

Chẳng phải điều Phật thuyết.

Hữu vi và vô vi

Kẻ ngu si tưởng chấp

Hàng Bồ Tát dứt tưởng

Chư Phật bậc sáng suốt.

Quán khắp thế gian này

Tất cả không thủ đắc

Do hiểu rõ thế gian

Cũng là không nơi chốn.

Phật, Thánh và chúng sinh

Nơi ấy không tưởng chấp

Người đã dứt mọi tưởng

Lành thay! Từ vô thượng.

Giả sử cõi chúng sinh

Pháp giới cũng như thế

Mới được gọi tên là

Bồ Tát dứt mọi chấp.

Do thấy việc bi thương

Tâm bi không hình tướng

Vì tâm bi không tướng

Kẻ ngu chẳng chốn hành.

Năm việc trong hư không

Không nơi nào không có

Cả thế gian như thế

Chính là bi hơn hết.

Chánh pháp vô thượng kia

Mới gọi là pháp Phật

Không tham đắm thế tục

Đó là pháp như nhiên.

Đấng cứu đời sáng soi

Sắc kia không thật có

Do pháp vô sắc ấy

Mới gọi vô kiến đảnh.

Hư không, không giới hạn

Bao trùm khắp tất cả

Là chánh pháp của Phật

Gọi là không thể quán.

Trí tuệ không thể đạt

Là đạo lớn vô thượng

Tuệ không thể thủ đắc

Đấy chẳng còn kiên cố.

Bờ này và bến kia

Đã thấy hoặc không thấy

Hiểu rõ, không hành theo

Chẳng phải cầu vọng tưởng.

Nhớ nghĩ pháp trí tuệ

Pháp ấy là bình đẳng

Nếu trái với pháp Phật

Thì không phải bạn lành.

Siêng năng, không siêng năng

Đều gọi là hư vọng

Không hành bình đẳng này

Thì không phải bạn lành.

Do sinh ra pháp ấy

Hoặc lại diệt pháp kia

Các chúng Tỳ Kheo này

Không khéo nghĩ lời Phật.

Có thể đoạn các khổ

Gốc tịnh không thật có

Thuyết giảng pháp như vậy

Tức giảng nêu lời Phật.

Phật lại bảo Đồng Tử Thiện Tư: Nếu cho các hành đều do sự tu tập mà đạt được thì nên dùng sự tu tập trong ba cõi để hành hóa về đạo.

Có xét đến ngã và ngã sở nên thực hành đại từ, tu tập đại bi rộng lớn, nương vào ba cõi thực hành ba giải thoát, ưa thích bốn đại nên tu tập vô thường, khổ, không, vô ngã.

Do sinh, lão, bệnh, tử mà cầu bốn vô sở úy, dùng mười hai nhân duyên để hiểu về mười hai Bộ Kinh. Nhờ mười tám giới mà tu tập mười tám pháp bất cộng của Chư Phật.

Do chúng sinh trong mười phương phạm mười điều ác nên tu tập mười điều thiện, cầu mười lực. Dùng ba sự che lấp để đạt ba sự sáng suốt, tham đắm nơi sáu tình nên tu sáu pháp Độ vô cực, sáu pháp thần thông, tùy theo bệnh cho thuốc khiến không còn nguy hiểm.

Đức Phật ví như vị lương y, Kinh pháp như thuốc tốt, vì có bệnh tật mà có vị lương y cùng thuốc men, không bệnh thì không thuốc, tất cả đều vốn không, không hình tướng, không tên gọi cũng không có giả hiệu.

Tâm như hư không, không gì so sánh được, mênh mông không giới hạn mới thích ứng với đạo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần