Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Thập định - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẨM HAI MƯƠI BẢY
PHẨM THẬP ĐỊNH
PHẦN HAI
Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát thừa ý chí của Như Lai, quán sát Phổ Nhãn và chúng Bồ Tát mà nói rằng: Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này có mười pháp môn vô tận.
Ðây là mười:
Một là Chư Phật xuất hiện trí vô tận.
Hai là chúng sanh biến hóa trí vô tận.
Ba là Thế Giới như ảnh trí vô tận.
Bốn là thâm nhập pháp giới trí vô tận.
Năm là thiện nhiếp Bồ Tát trí vô tận.
Sáu là Bồ Tát bất thối trí vô tận.
Bảy là thiện quán nhất thiết pháp nghĩa trí vô tận.
Tám là thiện trì tâm lực trí vô tận.
Chín là trụ quảng đại bồ đề tâm trí vô tận.
Mười là trụ nhất thiết Phật Pháp nhất thiết trí nguyện lực trí vô tận.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này phát mười môn vô biên tâm.
Ðây là mười:
Một là phát tâm vô biên độ thoát tất cả chúng sanh.
Hai là phát tâm vô biên thừa sự tất cả Chư Phật.
Ba là phát tâm vô biên cúng dường tất cả Chư Phật.
Bốn là phát tâm vô biên thấy khắp tất cả Chư Phật.
Năm là phát tâm vô biên thọ trì tất cả Phật Pháp chẳng quyên mất.
Sáu là phát tâm vô biên thị hiện vô lượng thần biến của tất cả Chư Phật.
Bảy là phát tâm vô biên vì được Phật lực nên chẳng bỏ tất cả Bồ Đề hạnh.
Tám là phát tâm vô biên nhập khắp cảnh giới vi tế của nhất thiết trí diễn thuyết tất cả Phật Pháp.
Chín là phát tâm vô biên nhập khắp cảnh giới quảng đại bất tư nghì của Phật.
Mười là phát tâm vô biên ham thích biện tài của Phật và lãnh thọ các Phật Pháp.
Thị hiện những thân tự tại vào trong chúng hội Đạo Tràng của tất cả Như Lai, mười là phát tâm vô biên ham thích biện tài của Phật và lãnh thọ các Phật Pháp, thị hiện những thân tự tại vào trong chúng hội Đạo Tràng của tất cả Như Lai.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này có mười môn nhập tam muội sai biệt trí.
Ðây là mười:
Một là Đông phương nhập định tây phương khởi.
Hai là Tây Phương nhập định Đông phương khởi.
Ba là Nam phương nhập định Bắc phương khởi.
Bốn là Bắc phương nhập định Đông phương khởi.
Năm là Đông Bắc phương nhập định Tây Nam phương khởi.
Sáu là Tây Nam phương nhập định Đông Bắc phương khởi.
Bảy là Tây Bắc phương nhập định Đông Nam phương khởi.
Tám là Đông Nam phương nhập định Tây Bắc phương khởi.
Chín là Hạ phương nhập định Thượng phương khởi.
Mười là Thượng phương nhập định Hạ phương khởi.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này có mười môn trí thiện xảo nhập đại tam muội.
Ðây là trí thiện xảo nhập phổ quang minh đại tam muội thứ nhất của đại Bồ Tát: Ðại Bồ Tát lấy đại thiên Thế Giới làm một Liên Hoa, hiện thân ngồi kiết già khắp trên Liên Hoa này.
Trong thân lại hiện đại thiên Thế Giới, trong đó có trăm ức tứ thiên hạ, mỗi mỗi tứ thiên hạ hiện trăm ức thân, mỗi mỗi thân nhập trăm ức trăm ức đại thiên Thế Giới. Nơi Thế Giới này, mỗi mỗi tứ thiên hạ hiện trăm ức Bồ Tát tu hành.
Mỗi mỗi Bồ Tát tu hành phát sanh trăm ức trăm ức thắng giải quyết định.
Mỗi mỗi quyết định giải làm cho trăm ức trăm ức căn tánh viên mãn.
Mỗi mỗi căn tánh thành tựu trăm ức trăm ức pháp hạnh bất thối của Bồ Tát.
Những thân đã thị hiện đây chẳng phải một, chẳng phải nhiều. Nhập định và xuất định không bị lầm loạn.
Chư Phật Tử! Như Lai Hầu A Tu La Vương, bổn thân cao bảy trăm do tuần, hóa hình cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, đứng giữa đại hải lộ nửa thân cao ngang đỉnh núi Tu Di.
Dầu hóa thân cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, nhưng bổn thân của A Tu La Vương vẫn không hư hoại, các uẩn xừ giới đều như cũ, tâm không lầm loạn, nơi thân biến hóa không nghĩ là thân khác, cũng không nghĩ bổn thân là chẳng phải mình. Bổn thân luôn hưởng thọ các sự vui, mà thân biến hóa thường hiện các thứ tự tại thần thông oai lực.
Chư Phật Tử! A Tu La Vương có tham sân si, còn đủ tánh kiêu mạn còn có thể biến hiện thân mình như vậy, huống là Đại Bồ Tát đã thân liễu đạt tâm pháp như huyễn, thế gian đều như mộng, Chư Phật xuất thế đều như bóng hình.
Tất cả Thế Giới dường như biến hóa, ngôn ngữ âm thanh đều như vang, đã thấy pháp chân thiệt, dùng pháp như thiệt làm thân mình, biết tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh, rõ biết thân tâm không có thiệt thể, thân mình ở khắp vô lượng cảnh giới, dùng Phật trí quang minh quảng đại để tịnh tu tất cả hạnh Bồ Đề.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ trong tam muội này vượt quá thế gian, xa lìa thế gian. Không bị mê loạn, không ai che chướng được.
Chư Phật Tử! Như Tỳ Kheo quán sát thân mình trụ nơi quán bất tịnh, thấy kỹ thân mình đều là bất tịnh. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ tam muội này quán sát Pháp Thân thấy các thế gian vào khắp trong thân mình, trong đó thấy rõ tất cả thế gian và pháp thế gian mà trọn không chấp trước. Trên đây là trí thiện xảo nhập phổ quang minh tam muội thứ nhất.
Ðây là Diệu quang minh Đại tam muội thứ hai của Đại Bồ Tát: Ðại Bồ Tát này có thể nhập đại thiên Thế Giới vi trần số đại thiên Thế Giới. Nơi mỗi mỗi Thế Giới hiện đại thiên Thế Giới vi trần số thân. Mỗi mỗi thân phóng đại thiên Thế Giới vi trần số quang minh. Mỗi mỗi quang minh hiện đại thiên Thế Giới vi trần số màu sắc.
Mỗi mỗi màu sắc chiếu đại thiên Thê Giới vi trần số Thế Giới. Trong mỗi mỗi Thế Giới điều phục đại thiên Thế Giới vi trần số chúng sanh.
Những Thế Giới này nhiều loại chẳng đồng, Bồ Tát điều biết rõ, đều nhập trong đó. Những Thế Giới đó cũng đều đến nhập nơi thân của Bồ Tát, dầu vậy nhưng những Thế Giới đó vẫn không tạp loạn, các pháp cũng chẳng hoại diệt.
Chư Phật Tử! Ví như mặt nhật mọc lên chiếu núi Tu Di, chiếu bảy Bửu Sơn. Bảy Bửu Sơn và khoảng giữa Bửu Sơn đều có quang ảnh hiển hiện rõ ràng. Bóng mặt nhật trên Bửu Sơn đều hiển hiện trong bóng giữa khoảng Bửu Sơn. Bóng mặt nhật giữa khoảng bảy Bửu Sơn cũng đều hiển hiện trong bóng mặt nhật trên Bửu Sơn. Xoay vần hiện bóng lẫn nhau như vậỵ.
Có người nói bóng mặt nhật hiện ra nơi bảy Bửu Sơn, có người nói bóng mặt nhật hiện ra nơi khoảng giữa bảy Bửu Sơn. Có người nói bóng mặt nhật nhập vào bảy Bửu Sơn, có người nói bóng mặt nhật nhập vào khoảng giữa bảy Bửu Sơn.
Nhưng bóng mặt nhật này chiếu hiện lẫn nhau không có ngằn mé, thể tánh chẳng phải có cũng lại chẳng phải không. Chẳng ở nơi Bửu Sơn cũng chẳng rời Bửu Sơn, chẳng trụ nơi nước cũng chẳng rời nước.
Chư Phật Tử! Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi diệu quang minh đại tam muội, chẳng hư hoại tướng an lập của thế gian, chẳng diệt mất tự tánh các pháp thế gian, chẳng trụ trong Thế Giới, chẳng trụ ngoài Thế Giới.
Ðối với Thế Giới không chỗ phân biệt, cũng chẳng hư hoại tướng Thế Giới. Quán tất cả pháp nhất tướng vô tướng cũng chẳng hư hoại tự tánh các pháp. Trụ luôn nơi tánh chân như chẳng hề bỏ rời.
Chư Phật Tử! Ví như nhà huyễn thuật, biết giỏi về huyễn thuật làm các sự huyễn nơi ngã tư đường, trong một ngày hay khoảng giây lát, hoặc hiện một ngày, hoặc hiện một đêm, hoặc hiện làm bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, trăm năm.
Tùy theo ý muốn, nhà huyễn thuận này hiện ra thành ấp, xóm, làng, suối, ao, sông, biển, mặt nhật, mặt nguyệt, mây, mưa, cung điện, nhà cửa.
Chẳng vì huyễn hiện trải qua cả tháng cả năm mà hư hoại một ngày hay một giờ căn bổn. Cũng chẳng vì thời gian căn bổn ngắn ngủi mà hư hoại năm tháng huyễn hiện. Tướng huyễn hiện rõ, ngày giờ căn bổn không mất.
Cũng vậy, Ðại Bồ Tát nhập diệu quang minh đại tam muội này hiện vô số Thế Giới vào một Thế Giới. Vô số Thế Giới đó, mỗi mỗi Thế Giới đều có đất, nước, gió, lửa, đại hải, các núi, thành ấp, vườn rừng, nhà cửa, thiên cung, Long Cung, Bát Bộ cung điện, đủ cả mọi sự trang nghiêm.
Cũng có ba cõi: Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc, Tiểu Thiên Thế Giới, đại thiên Thế Giới, nghiệp hành quả báo, chết đây sanh kia, tất cả thời tiết của thế gian: Giờ, phút, ngày, đêm, tháng, năm, kiếp thành, kiếp hoại, cõi nước thanh tịnh, chúng Bồ Tát chầu chực thần thông tự tại, giáo hóa chúng sanh. Khắp nơi trong các cõi nước đó có vô lượng nhân chúng khác loài khác tướng, vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn.
Nghiệp lực thanh tịnh thuở quá khứ vị lai hiện tại xuất sanh vô lượng trân bửu thượng diệu. Những việc như trên đều thị hiện đủ cả vào nơi một Thế Giới.
Ðại Bồ Tát ở nơi đây đều thấy rõ khắp cả. Vào khắp, xem khắp, nghĩ khắp, rõ khắp. Dùng trí vô tận đều biết như thiệt. Chẳng vì những Thế Giới kia nhiều mà hư hoại một Thế Giới này. Chẳng vì một Thế Giới này mà hư hoại nhiều Thế Giới kia.
Tại sao vậy?
Vì Bồ Tát biết tất cả pháp đều là vô ngã. Ðây gọi là nhập vô mạng pháp vô tác pháp.
Vì Bồ Tát nơi tất cả thế gian siêng tu hành pháp vô tránh nên gọi là bậc an trụ pháp vô ngã.
Vì Bồ Tát như thiệt thấy tất cả thân đều từ duyên khởi nên gọi là bậc an trụ pháp vô chúng sanh.
Vì Bồ Tát biết tất cả pháp sanh diệt đều từ nhân mà sanh nên gọi là bậc an trụ pháp vô bổ đặc dà la.
Vì Bồ Tát biết các pháp bổn tánh bình đẳng nên gọi là bậc an trụ pháp vô ý sanh vô ma nạp bà.
Vì Bồ Tát biết các pháp bổn tánh tịch tịnh nên gọi là bậc an trụ pháp tịch tịnh.
Vì Bồ Tát biết các pháp nhất tướng nên gọi là bậc an trụ pháp vô phân biệt.
Vì Bồ Tát biết pháp giới không có các thứ pháp sai biệt nên gọi là bậc an trụ pháp bất tư nghì.
Vì Bồ Tát siêng tu tất cả phương tiện giỏi điều phục chúng sanh nên gọi là bậc an trụ pháp đại bi.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có thể đem vô số Thế Giới nhập vào một Thế Giới, biết vô số chúng sanh nhiều loại khác nhau, thấy vô số Bồ Tát đều phát tâm, xem vô số Chư Phật xuất hiện mọi nơi.
Chư Phật đây diễn nói bao nhiêu chánh pháp, các Bồ Tát đây đều lãnh thọ cả. Cũng thấy thân mình tu hành trong các Đạo Tràng đó.
Dầu vậy, nhưng chẳng bỏ nơi đây mà thấy chỗ kia, cũng chẳng bỏ chỗ kia mà thấy tại đây. Thân kia, thân đây không có sai biệt, vì nhập pháp giới vậy. Thường siêng quán sát không thôi nghĩ chẳng bỏ rời trí huệ, vì chẳng thối chuyển vậy.
Như là huyễn thuật ở một nơi nào đó hiện các sự huyễn, chẳng vì nơi hiện huyễn sự mà hư hoại bổn xứ, chẳng vì thời gian huyễn mà hư hoại ngày giờ căn bổn.
Cũng vậy, Đại Bồ Tát nơi không có Quốc Độ hiện ra Quốc Độ. Nơi có Quốc Độ hiện không Quốc Độ. Nơi có chúng sanh hiện không chúng sanh, nơi không chúng sanh hiện có chúng sanh. Không sắc hiện có sắc, có sắc hiện không sắc. Trước chẳng làm loạn sau, sau chẳng làm loạn trước.
Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp thế gian đều đồng như huyễn hóa. Vì biết pháp huyễn nên biết trí huyễn. Vì biết trí huyễn nên biết nghiệp huyễn.
Ðã biết trí huyễn và nghiệp huyễn nên khởi huyễn trí xem tất cả nghiệp như là huyễn thuật thế gian. Chẳng xứ mà hiện huyễn, cũng ở ngoài bổn chẳng ở ngoài huyễn mà có bổn xứ. Cũng vậy, Đại Bồ Tát chẳng ở ngoài hư không mà nhập thế gian, cũng chẳng ở ngoài thế gian mà nhập hư không.
Tại sao vậy?
Vì hư không và thế gian không sai biệt, trụ nơi thế gian cũng trụ nơi hư không. Ðại Bồ Tát ở trong hư không hay thấy hay tu tất cả công nghiệp sai biệt diệu trang nghiêm của thế gian. Khoảng một niệm đều rõ biết được vô số Thế Giới hoặc thành hoặc hoại, cũng biết các kiếp tuần tự nối tiếp.
Trong khoảng một niện hiện vô số kiếp, nhưng cũng chẳng làm cho một niệm đó rộng lớn ra. Ðại Bồ Tát được huyễn trí giải thoát bất tư nghì, đến nơi bỉ ngạn, trụ nơi huyễn tế, nhập ở huyễn số thế gian, tư duy các pháp thảy đều như huyễn, chẳng trái huyễn thế, cùng tận nơi huyễn trí, rõ biết Tam Thế cùng huyễn không khác, thông đạt quyết định, tâm không ngằn mé.
Như Chư Như Lai trụ trí như huyễn, tâm Phật bình đẳng. Cũng vậy, Đại Bồ Tát biết các thế gian thảy đều như huyền, với tất cả chỗ đều không chấp trước, không có ngã sở. Như là huyễn thuật hiện các sự huyễn, dầu chẳng đồng ở với các huyễn sự đó, nhưng vẫn không mê lầm đối với các huyễn sự.
Cũng vậy, Đại Bồ Tát, biết tất cả pháp đến rốt ráo Bỉ Ngạn, tâm chẳng chấp ngã hay nhập nơi pháp, cũng chẳng lầm loạn nơi các pháp. Trên đây là trí thiện xảo diệu Quang Minh Đại tam muội thứ hai của Đại Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Thế nào là thứ đệ biến vãng Chư Phật Quốc Độ thần thông đại tam muội của Đại Bồ Tát?
Ðại Bồ Tát này qua vô số Thế Giới phương Đông, lại qua vô số Thế Giới vi trần số Thế Giới, nơi các Thế Giới đó nhập tam muội này.
Hoặc sát na nhập, hoặc giây lát nhập, hoặc nối tiếp nhập.
Hoặc sáng, hoặc trưa, hoặc chiều nhập.
Hoặc đầu hôm, giữa đêm, hoặc cuối đêm nhập.
Hoặc nhập một ngày, hoặc năm ngày, hoặc nửa tháng, một tháng.
Hoặc nhập một năm, trăm năm, ngàn năm.
Hoặc nhập trăm ngàn năm, ức năm, trăm ngàn ức năm, trăm ngàn na do tha ức năm.
Hoặc nhập một kiếp, trăm kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn na do tha ức kiếp.
Hoặc nhập vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp.
Hoặc nhập bất khả sổ kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.
Hoặc lâu, hoặc gần, hoặc pháp, hoặc thời gian các loại chẳng đồng.
Với những sự trên đây, Bồ Tát chẳng sanh lòng phân biệt, chẳng nhiễm trước, chẳng cho là khác, chẳng cho là không khác, chẳng cho là khắp, chẳng cho là riêng. Dầu lìa sự phân biệt, mà Bồ Tát dùng thần thông phương tiện từ tam muội khởi, với các pháp chẳng quên chẳng mất, đến nơi rốt ráo.
Ví như mặt nhật đi vòng soi sáng, ngày đêm không dừng. Mặt nhật mọc gọi là ngày, mặt nhật lặn gọi là đêm. Ban ngày mặt nhật chẳng sanh, ban đêm mặt nhật cũng chẳng mất. Ðại Bồ Tát nơi vô số Thế Giới nhập thần thông tam muội. Ðã nhập tam muội, thấy rõ ngần ấy vô số Thế Giới cũng như vậy.
Trên đây là trí thiện xảo thứ đệ Biến Vãng Chư Phật Quốc Độ thần thông đại tam muội thứ ba của đại Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Thế nào là Đại Bồ Tát thanh tịnh thân tâm hành đại tam muội?
Ðại Bồ Tát này biết số thân Chư Phật đồng với số chúng sanh. Thấy vô lượng Phật hơn số vi trần trong vô số Thế Giới, Bồ Tát đem các thứ hương, hoa, lọng, châu báu, đồ trang nghiêm, ma ni bửu tạng, nhẫn đến tứ sự, tất cả đều thượng diệu quảng đại hơn hẳn của các cõi trời để cúng dường mỗi Đức Phật.
Ðối với mỗi Đức Phật, Bồ Tát cung kính tôn trọng cúi đầu đảnh lễ thưa thỉnh Phật Pháp, khen Phật bình đẳng, ca ngợi công đức quảng đại của Chư Phật. Nhập vào đại bi của Chư Phật, được sức vô ngại bình đẳng của Chư Phật.
Khoảng một niệm, cần cầu diệu pháp khắp tất cả Phật. Nhưng với những tướng Chư Phật xuất thế nhập diệt, đều vô sở đắc. Như tâm tán động liễu biệt cảnh sở duyên, tâm khởi, chẳng biết sở duyên nào khởi, tâm diệt, chẳng biết sở duyên nào diệt. Cũng vậy, Đại Bồ Tát này trọn chẳng phân biệt tướng xuất thế cùng nhập Niết Bàn của Như Lai.
Chư Phật Tử! Như dương diệm giữa ngày, chẳng phải từ mây sanh, chẳng phải từ ao sanh, chẳng ở trên đất, chẳng ở dưới nước, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải thiện chẳng phải ác, chẳng phải trong chẳng phải đục, chẳng dùng uống rửa được, chẳng làm ô uế được, chẳng phải có thể chất chẳng phải không thể chất, chẳng phải có vị chẳng phải không vị.
Do vì nhân duyên mà hiện tướng nước. Do thức phân biệt trông xa tợ nước mà sanh tưởng là nước, đến gần thời không có, tưởng nước tự mất. Ðại Bồ Tát đây cũng như vậy. Tướng Như Lai xuất thế và Niết Bàn đều bất khả đắc. Chư Phật có tướng hay không tướng đều là tâm tưởng phân biệt.
Chư Phật Tử! Tam Muội này gọi là thanh tịnh thâm tâm hành. Ðại Bồ Tát ở nơi tam muội này nhập rồi mà khởi, sau khi khởi chẳng mất. Ví như có người từ giấc ngủ thức dậy nhớ sự chiêm bao. Lúc thức dầu nhớ sự chiêm bao. Lúc thức dầu không có cảnh giới chiêm bao nhưng vẫn có thể ghi nhớ chẳng quên.
Cũng vậy, Đại Bồ Tát nhập tam muội thấy Phật nghe pháp, sau khi xuất định ghi nhớ chẳng quên, rồi đem pháp đã được nghe giảng dạy lại tất cả chúng hội trong Đạo Tràng, trang nghiêm tất cả Quốc Độ Chư Phật.
Vô lượng nghĩa thú đều được sáng suốt, tất cả pháp môn cũng đều thanh tịnh, thắp đuốc đại trí, làm lớn giống Phật, đầy đủ vô úy, biện tài chẳng cạn, khai thị diễn thuyết pháp tạng thậm thâm. Trên đây là trí thiện xảo thanh tịnh thâm tâm hạnh đại tam muội thứ tư của Đại Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tri quá khứ trang nghiêm tạng tam muội?
Ðại Bồ Tát này biết được quá khứ Chư Phật xuất hiện. Những là các cõi thứ đệ trong kiếp thứ đệ, các kiếp thứ đệ trong cõi thứ đệ, Chư Phật xuất hiện thứ đệ trong kiếp thứ đệ, thuyết pháp thứ đệ trong Chư Phật xuất hiện thứ đệ, các tâm nguyện thứ đệ trong thuyết pháp thứ đệ.
Các căn tánh thứ đệ trong tâm nguyện thứ đệ, điều phục thứ đệ trong căn tánh thứ đệ, Chư Phật thọ mạng thứ đệ trong điều phục thứ đệ, biết ức na do tha số lượng năm tuổi thứ đệ trong thọ mạng thứ đệ.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này vì được vô biên thứ đệ trí như vậy nên biết quá khứ Chư Phật, nên biết quá khứ các cõi, nên biết quá khứ pháp môn, nên biết quá khứ các kiếp, nên biết quá khứ các pháp, nên biết quá khứ các tâm, nên biết quá khứ các tri giải, nên biết qúa khứ các chúng sanh, nên biết quá khứ các phiền não, nên biết quá khứ các nghi thức, nên biết quá khứ các thanh tịnh.
Chư Phật Tử! Tam muội này tên là quá khứ thanh tịnh tạng. Trong một niệm có thể nhập trăm kiếp, có thể nhập ngàn kiếp, có thể nhập trăm ngàn kiếp, có thể nhập trăm ngàn ức na do tha kiếp, có thể nhập vô số kiếp, có thể nhập vô lượng kiếp, có thể nhập vô biên kiếp, có thể nhập vô đẳng kiếp.
Có thể nhập bất khả sổ kiếp, có thể nhập bất khả xưng kiếp, có thể nhập bất khả tư kiếp, có thể nhập bất khả lượng kiếp, có thể nhập bất khả thuyết kiếp, có thể nhập bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.
Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát nhập tam muội này chẳng diệt hiện tại, chẳng duyên quá khứ. Ðại Bồ Tát này từ tam muội khởi, thọ nơi Đức Như Lai mười thứ pháp quán đảnh bất tư nghì, cũng được, cũng thanh tịnh, cũnh thành tựu, cũng nhập, cũng chứng, cũng mãn, cũng trì, bình đẳng biết rõ ba luân thanh tịnh.
Ðây là mười:
Một là biện thuyết chẳng trái nghĩa.
Hai là thuyết pháp vô tận.
Ba là huấn từ không lỗi.
Bốn là nhạo thuyết chẳng dứt.
Năm là tâm không khủng bố.
Sáu là lời quyết thành thiệt.
Bảy là chúng sanh y tựa.
Tám là cứu thoát ba cõi.
Chín là thiện căn tối thắng.
Mười là điều ngự diệu pháp.
Trên đây là mười pháp quán đảnh. Nếu Bồ Tát nhập tam muội này, từ tam muội xuất liền được. Như Ca La Lã lúc nhập thai tạng, trong một niệm thức liền thác sanh.
Cũng vậy, Đại Bồ Tát từ tam muội này xuất, trong một niệm thời được mười pháp này nơi Đức Như Lai. Trên đây gọi là trí thiện xảo biết quá khứ trang nghiêm tạng đại tam muội thứ năm của Đại Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trí Quang Minh tạng đại tam muội?
Ðại Bồ Tát trụ tam muội này có thể biết vị lai Chư Phật trong tất cả kiếp tất cả Thế Giới, hoặc đã nói hoặc chưa nói, hoặc đã thọ ký hoặc chưa thọ ký, các loại danh hiệu chẳng đồng.
Những là vô số danh, vô lượng danh, vô biên danh, vô đẳng danh, bất khả sổ danh, bất khả xưng danh, bất khả tư danh, bất khả lượng danh, bất khả thuyết danh.
Sẽ xuất thế, sẽ độ sanh, sẽ làm Pháp Vương, sẽ khởi Phật Sự, sẽ nói phước lợi, sẽ khen thiện nghĩa, sẽ nói bạch phần nghĩa, sẽ trừ sạch các điều ác, sẽ an trụ công đức, sẽ khai thị đệ nhất nghĩa đế, sẽ nhập quán đảnh vị, sẽ thành nhất thiết trí.
Chư Phật đó tu hạnh viên mãn, phát nguyện viên mãn, nhập viên mãn trí, có viên mãn chúng, đủ viên mãn trang nghiêm, họp viên mãn công đức, ngộ viên mãn pháp, được viên mãn quả, đủ viên mãn tướng, thành viên mãn giác.
Chư Phật đó, danh tánh chủng tộc, phương tiện thiện xảo thần thông biến hóa, thành thục chúng sanh, nhập Niết Bàn, tất cả những điều như vậy, Bồ Tát này biết rõ cả. Trong một niệm, Bồ Tát này có thể nhập một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức na do tha kiếp.
Có thể nhập Diêm Phù Ðề vi trần số kiếp, tứ thiên hạ vi trần số kiếp, tiểu thiên Thế Giới vi trần số kiếp, trung thiên Thế Giới vi trần số kiếp, Đại Thiên Thế Giới vi trần số kiếp.
Có thể nhập trăm Phật sát vi trần số kiếp, trăm ngàn Phật sát vi trần số kiếp, trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số kiếp, vô số Phật sát vi trần số kiếp, vô lượng Phật sát vi trần số kiếp, vô biên Phật sát vi trần số kiếp, vô đẳng Phật sát vi trần số kiếp, bất khả số Phật sát vi trần số kiếp.
Bất khả xưng Phật sát vi trần số kiếp, bất khả tư Phật sát vi trần số kiếp, bất khả lượng Phật sát vi trần số kiếp, bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, nhẫn đến nhập bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số kiếp.
Vị lai tất cả Thế Giới có ngần ấy kiếp số như vậy, Bồ Tát này có thể dùng trí huệ đều biết rõ. Vì biết rõ nên tâm Bồ Tát này lại nhập mười thứ trì môn.
Ðây là mười:
Vì nhập Phật trì nên được bất khả thuyết Phật sát vi trần số Chư Phật hộ niệm.
Vì nhập pháp trì nên được mười thứ Đà La Ni quang minh vô tận biện tài.
Vì nhập Hạnh trì nên xuất sanh các nguyện viên mãn thù thắng.
Vì nhập Lực trì nên không ai che chướng được, không ai khuất phục được.
Vì nhập Trí trì nên thật hành Phật Pháp không có chướng ngại.
Vì nhập Ðại bi trì nên chuyển pháp luân bất thối thanh tịnh.
Vì nhập Sai biệt thiện xảo cú trì nên chuyển tất cả văn tự luân, tịnh tất cả pháp môn Ðịa.
Vì nhập Sư tử thọ sanh pháp trì nên mở khóa cửa pháp, ra khỏi bùn lầy tham dục.
Vì nhập trí lực trì nên tu hạnh Bồ Tát thường chẳng thôi nghỉ.
Vì nhập thiện hữu lực trì nên làm cho vô biên chúng sanh đều được thanh tịnh.
Vì nhập vô trụ lực trì nên nhập bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại kiếp.
Vì nhập pháp lực trì nên dùng vô ngại phương tiện trí biết tất cả pháp tự tánh thanh tịnh.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát đã trụ tam muội này rồi thời khéo hay trụ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, khéo hay trụ bất khả thuyết bất khả thuyết cõi, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết các loài chúng sanh, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết tướng khác nhau của chúng sanh.
Khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết nghiệp báo đồng dị, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết những căn tinh tấn tập khí tiếp nối các hạnh sai biệt, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng nhiễm tịnh các thứ tư duy.
Khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết các loại pháp nghĩa vô lượng văn tự ngôn từ diễn thuyết, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết Chư Phật xuất thế chủng tộc thời tiết hiện tướng thuyết pháp thi vi Phật Sự nhập Niết Bàn, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô biên môn trí huệ, khéo hay biết bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả thần thông vô lượng biến hiện.
Chư Phật Tử! Ví như mặt nhật mọc lên soi sáng thế gian tất cả vật loại, như thành ấp, cung điện, nhà cửa, núi sông, chim thú, vườn rừng, bông trái vân vân, người có mắt sáng thời đều thấy rõ cả. Ánh sáng mặt nhật bình đẳng không phân biệt có thể làm cho Bồ Tát khéo biết bất khả thuyết bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha tướng sai khác.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này lúc rõ biết như vậy khiến chúng sanh được mười thứ bất không.
Ðây là mười:
Một là kiến bất không, vì làm cho chúng sanh phát sanh thiện căn.
Hai là văn bất không, vì làm cho chúng sanh được thành thục.
Ba là đồng trụ bất không, vì làm cho chúng sanh tâm điều phục.
Bốn là phát khởi bất không, vì làm cho chúng sanh thật hành đúng như lời, thông đạt tất cả pháp nghĩa.
Năm là hạnh bất không, vì làm cho vô biên Thế Giới đều thanh tịnh.
Sáu là thân cận bất không, vì ở chỗ bất khả thuyết bất khả thuyết Chư Phật dứt nghi ngờ cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh.
Bảy là chuyện bất không, vì theo sở niệm của chúng sanh khiến làm việc cúng dường thù thắng thành tựu các nguyện.
Tám là thiện xảo pháp bất không vì làm cho đều được trụ nơi trí thanh tịnh giải thoát vô ngại.
Chín là mưa pháp vũ bất không, vì nơi bất khả thuyết bất khả thuyết căn tánh chúng sanh, phương tiện khai thị hạnh nhất thiết trí khiến trụ Phật Đạo.
Mười là xuất hiện bất không, vì hiện vô biên tướng, làm cho tất cả chúng sanh đều được soi sáng.
Chư Phật Tử! Lúc Đại Bồ Tát an trụ nơi tam muội này được mười thứ bất không, thời Chư Thiên Vương đều đến đảnh lễ, Chư Long Vương nổi mây thơm lớn.
Chư Dạ Xoa Vương đảnh lễ dưới chân, Chư A Tu La Vương cung kính cúng dường, Chư Ca Lâu La Vương tôn trọng đứng quanh, Chư Phạm Thiên Vương đều đến thỉnh cầu, Chư Càn Thát Bà Vương thường đến chầu chực, Chư Khẩn Na La Vương và Chư Ma Hầu La Dà Vương đều cùng ngợi khen, Chư Nhân Vương kính thờ cúng dường. Trên đây là trí thiện xảo trí quang minh tạng Đại tam muội thứ sáu của Đại Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Thế nào là liễu tri nhất thiết Thế Giới.
Phật trang nghiêm tam muội của Đại Bồ Tát?
Sao lại gọi tam muội này là liễu tri nhất thiết Thế Giới Phật trang nghiêm?
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ trong tam muội này, hay thứ đệ nhập Thế Giới phương Đông, hay thứ đệ nhập Thế Giới phương Nam, phương Tây, phương Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc, Thượng phương và Hạ phương.
Ðều thấy Chư Phật xuất thế, cũng thấy tất cả thần lực của Đức Phật đó, cũng thấy những sự biến hóa của Chư Phật, cũng thấy oai đức rộng lớn của Chư Phật, cũng thấy sự tối thắng tự tại của Chư Phật, cũng thấy Chư Phật Đại Sư tử hống, cũng thấy những công hạnh đã tu của Chư Phật.
Cũng thấy các loại trang nghiêm của Chư Phật, cũng thấy Chư Phật thần thông biến hóa, cũng thấy chúng hội của Chư Phật vân tập, chúng hội thanh tịnh, chúng hội quảng đại, chúng hội nhất tướng, chúng hội nhiều tướng, chúng hội xứ sở, chúng hội an ở, chúng hội thành thục, chúng hội điều phục, chúng hội oai đức.
Tất cả những việc như vậy Bồ Tát này đều thấy rõ. Cũng thấy chúng hội số lượng lớn nhỏ bằng Diêm Phù Ðề, hoặc bằng tứ thiên hạ, hoặc bằng tiểu thiên Thế Giới, hoặc bằng trung thiên Thế Giới, hoặc bằng đại thiên Thế Giới.
Cũng thấy chúng hội đầy khắp trăm ngàn ức na do tha Cõi Phật, hoặc đầy khắp vô số Cõi Phật, hoặc đầy khắp trăm Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp ngàn Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp trăm ngàn ức na do tha Phật Sát Vi Trần Số Cõi Phật.
Hoặc đầy khắp vô số Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp vô lượng Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp vô biên Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp vô đẳng Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp bất khả sổ Phật sát vi trần số Cõi Phật.
Hoặc đầy khắp bất khả xưng Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp bất khả tư Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp bất khả lượng Phật sát vi trần số Cõi Phật, hoặc đầy khắp bất khả thuyết Phật sát vi trần số Cõi Phật, nhẫn đến cũng thấy chúng hội đầy khắp bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Cõi Phật.
Cũng thấy Chư Phật ở trong chúng hội Đạo Tràng kia thị hiện các loại tướng trạng, các loại thời gian, các loại Quốc Độ, các loại biến hóa, các loại thần thông, các loại trang nghiêm, các loại tự tại, các loại hình lượng, các loại sự nghiệp.
Ðại Bồ Tát này cũng thấy tự thân qua chúng hội đó, thấy mình thuyết pháp, thấy mình lãnh thọ lời Phật, cũng thấy mình khéo biết duyên khởi, cũng thấy thân mình ở giữa không gian, cũng thấy thân mình ở nơi Pháp Thân.
Cũng thấy thân mình chẳng sanh nhiễm trước, cũng thấy thân mình chẳng ở nơi phân biệt, cũng thấy thân mình không mỏi nhọc, cũng thấy thân mình vào khắp các trí, cũng thấy thân mình biết khắp các nghĩa, cũng thấy thân mình vào khắp các địa.
Cũng thấy thân mình vào khắp các loài, cũng thấy thân mình biết khắp phương tiện, cũng thấy thân mình qua khắp trước Phật, cũng thấy thân mình vào khắp các lực, cũng thấy thân mình vào khắp chân như, cũng thấy thân mình vào khắp vô tránh, cũng thấy thân mình vào khắp các pháp.
Lúc thấy như vậy, Bồ Tát này chẳng phân biệt Quốc Độ, chẳng phân biệt chúng sanh, chẳng phân biệt Phật, chẳng phân biệt pháp, chẳng nhiễm trước thân và thân nghiệp, chẳng chấp trước tâm và ý.
Ví như các pháp chẳng phân biệt tự tánh, chẳng phân biệt âm thanh, mà tự tánh chẳng bỏ, danh tự chẳng mất. Ðại Bồ Tát cũng vậy, chẳng bỏ công hạnh, làm theo thế gian, mà vẫn không chấp trước nơi hai sự này.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Lê Sư đạt đa - Phần Ba
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN (Trọn Bộ - Bản chuẩn nhất)
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Bốn Mươi Ba - Phẩm Chuyện Ma Ha Linh Nô
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Năm - Phẩm Nghĩa Chân Thật
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Mười Một - Phẩm Vị Vương Tử Thứ Chín được Thọ Ký
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Chín - Phẩm Vô Trụ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Du Già đại Giáo Vương - Phẩm Chín - Phẩm Phật Nói Kinh Du Già đại Giáo Vương Hộ Ma