Phật Thuyết Kinh đại Tập Những điều Bồ Tát Hư Không Tạng Hỏi Phật - Phần Mười Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bất Không, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TẬP NHỮNG ĐIỀU
BỒ TÁT HƯ KHÔNG TẠNG HỎI PHẬT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bất Không, Đời Đường
PHẦN MƯỜI SÁU
Lại nữa, như âm thanh của voi, ngựa, người không chuyển đến nơi hang sâu, nhưng các âm thanh ấy, nhờ nơi hang sâu mà phát ra tiếng vang, những âm thanh ấy chỉ làm nhân cho tiếng vang trong hang, biện tài của Phật cũng vậy, không có di chuyển, chỉ tạo nhân cho biện tài của Bồ Tát.
Hỏi: Như Lai thường thuyết giảng về pháp duyên sinh sâu xa, lại giảng về các pháp không có nơi chốn sinh.
Này thiện nam! Lẽ nào không có duyên sinh mà có các pháp chăng?
Đáp: Nếu nhân duyên có tạo tác thì pháp có sinh, pháp của nhân duyên không tạo tác nên nói là các pháp không sinh.
Hỏi: Như Lai xuất hiện ở đời, lẽ nào chẳng phải là sinh chăng?
Đáp: Nếu cho chân như có sinh thì có thể nói Như Lai có sinh. Nếu cho chân như không sinh thì không nên nêu vấn nạn Như Lai xuất hiện ở đời là có sinh. Cho nên không sinh gọi là Như Lai. Như Lai là đối với tất cả pháp đều đạt giác ngộ, nên gọi là Như Lai.
Thiện Nam! Chư vị vì sao lại nói Như Lai là có sinh?
Ơ đây nên theo như trên mà giải đáp.
Hỏi: Thế nào gọi là giải đáp như vậy?
Đáp: Đó gọi là trụ nơi pháp tánh, nên gọi là đạt được như vậy.
Hỏi: Pháp tánh làm thế nào để trụ?
Đáp: Trụ nơi không sinh không diet, chẳng trụ chẳng phải là chẳng trụ, đó gọi là trụ nơi pháp tánh. Trụ nơi pháp tánh là không chốn trụ, tất cả các pháp cũng đều như vậy, trụ nơi không chốn trụ. Như Lai cũng vậy, trụ nơi không chốn trụ. Chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng phải trụ chẳng phải không trụ, như thế, chẳng phải trụ chẳng phải không trụ, gọi là chốn trụ của Như Lai.
Này thiện nam! Nói Như Lai sinh là chấp một bên, nói Như Lai không sinh là chấp một bên, xa lìa chấp nhị biên gọi là trung đạo.
Thiện Nam! Quán về Như Lai nên quán như vậy, nếu quán khác thì chẳng phải là quán chân chánh.
Bồ Tát Bảo Cát Tường nói: Diệu nghĩa của Như Lai sinh hết sức sâu xa như vậy, là trụ nơi không chốn trụ, chẳng sinh chẳng diệt.
Bồ Tát Hư Không Tạng nói: Này thiện nam! Nếu hiểu rõ về diệu nghĩa của Như Lai sinh này thì không sinh tăng thượng.
Hỏi: Thiện Nam! Thế nào là tăng thượng?
Đáp: Tăng thượng đó là câu tăng trưởng, nghĩa là ở nơi chỗ không có khoảng giữa, vọng sinh có tăng thêm, vì pháp vốn không tăng trưởng. Nếu có thể ở nơi các pháp chẳng sinh tâm niệm tăng trưởng, gọi là câu bình đẳng, câu vô đẳng, câu không, câu không có câu, câu không có văn tự, câu không phân biệt. Đối với các việc ấy không có nẻo hành của tâm ý thức, là câu không có chốn hành.
Câu không có chốn hành ví như nơi hư không thật sự không có dấu chân chim, chỉ giả dùng âm thanh, lời nói ngôn ngữ để nói về dấu chân chim. Như vậy Như Lai thật sự không có sinh, chỉ giả dùng ngôn thuyết để nói Như Lai xuất hiện ở đời. Bậc trí tuệ mới có thể hiểu rõ về diệu nghĩa của câu không sinh.
Vì sao?
Vì diệu nghĩa của câu không sinh này là tự tánh của các pháp. Gọi là không sinh, mà tính chất không sinh ấy cũng không có tự tánh, vì không có tự tánh nên không có chốn trụ. Vì cõi của không nơi chốn trụ là cõi của tất cả các pháp. An trụ nơi cõi của tất cả các pháp gọi là cõi thực, cũng là cõi của biên vực, hiện bày khắp mọi nơi.
Do chứng đạt được thật tế của hết thảy các pháp bình đẳng như hư không, không có giới hạn thì thật tế của pháp ấy cũng không có giới hạn, nếu có giới hạn thì không thể gọi là thật tế của tất cả các pháp. Thật tế của hết thảy các pháp bình đẳng như vậy thì gọi là thật tế của ngã. Biết that tế của ngã thì nhận biết thật tế của tất cả chúng sinh. Nếu nhận biết thật tế của tất cả chúng sinh tức nhận biết thật tế của tất cả các pháp.
Thật tế ấy là thật tế của ngã, là thật tế của hết thảy chúng sinh, là thật tế của tất cả các pháp gọi là tận tế. Tận tế nghĩa là Niết Bàn, chứng được lý này gọi là chứng đắc Niết Bàn. Lại nữa, tất cả các pháp là không có đối đãi, lìa tướng đối trị, ví như hư không, không có chu thể đối trị, như thế các pháp cũng không có đối trị.
Nếu cho có Niết Bàn để có thể hội nhập, có thể cầu đạt, tức là sinh kiến chấp về diệt, cho pháp này nên sinh, pháp này nên diệt thì người ấy thực hành theo nẻo sinh diệt, không nhận biết về Niết Bàn bình đẳng một tánh. Vì không nhận biết nên chấp trước, nơi các pháp vọng sinh tranh luận.
Như Đức Thế Tôn đã giảng nói: Nếu như biết lãnh thọ lời dạy của Như Lai thì nên biết những vị ấy đã đạt đầy đủ các công đức tối thắng của hàng Sa Môn.
Lúc đó, Tôn Giả A Nan bạch Phật: Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn! Biện tài vô ngại của Bồ Tát Đại Hư Không Tạng mới có thể tự thân chứng biết được như vậy, mới có thể làm, có thể thuyết giảng như thế.
Bấy giờ, Bồ Tát Đại Hư Không Tạng nói với Tôn Giả A Nan: Đại Đức không nên nói do tôi tự chứng được.
Vì sao?
Vì thân tôi là hư không, vì thân hư không nên biết tất cả pháp đều là hư không.
Thế sao Tôn Giả bảo là do tôi tự chứng được?
Tôn Giả A Nan nói: Nếu thân là không thì Nhân Giả lấy thân gì để làm Phật Sự?
Đáp: Dùng Pháp thân, vì Pháp thân không có biến chuyển, dời đổi, với uẩn, xứ, giới đều cũng chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng phải thân điên đảo, mà đạt được sự ứng hiện tùy ý, nên từ nơi thân đó mà làm Phật Sự.
Hỏi: Đại Sĩ! Ông đã chứng pháp thân rồi chăng?
Đáp: Đại Đức! Như tôi đã giải thích, lìa pháp thì không thân, thân tôi tức là pháp, pháp tức là thân tôi, hoặc pháp hoặc thân không có hai tướng, cho nên nói là thân chứng.
Hỏi: Đại Sĩ! Nếu thân chứng thì ông đã chứng đắc A La Hán chăng?
Đáp: Không có chỗ chứng đắc mà chứng đắc.
Vì sao?
Vì A La Hán là khéo có thể thông đạt về pháp không tranh luận, không nhiễm, không sân giận, cũng không si mê.
Hỏi: Nếu như vậy thì ông đã hoàn toàn đạt được Niết Bàn chăng?
Đáp: Đại Đức! A La Hán là chẳng Bát Niết Bàn.
Vì sao?
Vì biết tất cả các pháp hoàn toàn là Niết Bàn, đoạn trừ tưởng chấp về Niết Bàn, chỉ vì các hàng phàm phu tạo ra sự phân biệt nói ta đã Niết Bàn, cho đến phân biệt cho là có vô số Niết Bàn sai khác.
Hỏi: Đại Sĩ! Như lời ông nói, Bồ Tát chẳng phải là A La Hán, chẳng phải là phàm phu, chẳng phải là bậc hữu học và vô học, chẳng phải là Bích Chi Phật, chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải là Như Lai?
Đáp: Lành thay, lành thay! Thưa Đại Đức A Nan Đà. Vì chẳng phải là A La Hán, chẳng phải là phàm phu, chẳng phải là bậc hữu học và vô học, chẳng phải là Bích Chi Phật, chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải là Như Lai, nên Bồ Tát đối với các nơi chốn đều có thể thị hiện, cũng không trụ nơi tất cả quả vị.
Khi thuyết giảng pháp này, trong chúng hội có năm trăm vị A La Hán, hết thảy đều cởi tấm y mặc trên người dâng lên cúng dường Bồ Tát Hư Không Tạng, rồi thưa: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đạt được biện tài như Bồ Tát Hư Không Tạng.
Khi ấy, Bồ Tát Hư Không Tạng nhờ diệu lực hộ trì của Đức Như Lai nên khiến cho các pháp y đẹp đẽ vừa được cúng dường đều ẩn vào hư không, không hiện bày.
Chư vị A La Hán, Tỳ Kheo hỏi Bồ Tát Hư Không Tạng: Đại Sĩ! Các y như vậy đã trụ vào nơi nào?
Bồ Tát Hư Không Tạng đáp: Đã nhập vào kho tàng hư không của tôi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười.
Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn mỉm cười?
Như Lai mỉm cười chẳng phải là không có nguyên do, xin nguyện nói rõ cho chúng con.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Những vị Tỳ Kheo dâng cúng y cho Bồ Tát Hư Không Tạng, được Bồ Tát dùng diệu lực của thần thông làm cho những y đó nhập hết vào trong kho tàng hư không, đi đến Thế Giới Ca Sa Tràng của Đức Như Lai Sơn Vương mà làm Phật Sự.
Âm thanh thuyết giảng của Bồ Tát Hư Không Tạng ở nơi Thế Giới ấy đều phát ra từ Ca sa, vô lượng Bồ Tát nghe pháp này rồi, đều được pháp nhẫn vô sinh.
A Nan nên biết! Trí thần thông thù thắng của Bồ Tát dùng vô lượng âm thanh, ngôn từ như thế mà thành tựu cho chúng sinh, do nhân duyên đó nên ta mỉm cười.
Lúc giảng nói pháp này thì bỗng nhiên ở giữa hư không, mưa xuống vô lượng hoa nhật nguyệt quang, đều như màu sắc của lửa đỏ rực rỡ, từ xưa chưa từng thấy, trong những hoa ấy phát ra âm thanh nói: Nếu người nào được nghe lời thuyết giảng của Bồ Tát Hư Không Tạng về pháp ấy bất thoái, sinh sự tin hiểu thì chắc chắn nhưng vị ấy sẽ hướng đến Đạo Tràng Bồ Đề.
Tôn Giả A Nan thưa Phật: Kính bạch Thế Tôn! Những hoa như vậy đã từ nơi chốn nào đến?
Phật bảo A Nan: Có một Phạm Vương tên là Quang Trang Nghiêm làm chủ trăm ngàn Thế Giới. Vị Phạm Vương ấy vì để cúng dường Bồ Tát Hư Không Tạng nên đã mưa xuống những hoa như vậy.
Tôn Giả A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng con xin được thấy vị Phạm Vương ấy.
Phật bảo: Hãy đợi giây lát, các ông sẽ thấy.
Lúc đó, Phạm Vương Quang Trang Nghiêm, cùng với Phạm chúng sáu mươi vạn tám ngàn người vây quanh trước sau, liền ẩn mất ở Cõi Trời kia mà hiện đến trước chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui ra ngồi một bên, chắp tay hướng về Phật.
Thưa: Thế Tôn! Thật là kỳ lạ! Bồ Tát Hư Không Tạng ấy là không thể nghĩ bàn, đầy đủ oai đức về tịnh giới, oai đức về thiền định, oai đức về thần thông, oai đức về trí tuệ, oai đức về các nguyện được như ý, oai đức về phương tiện thiện xảo, oai đức về ý lạc tăng thượng, oai đức về Pháp thân tự tại, oai đức về thân, khẩu, ý trang nghiêm, oai đức tự tại đối với tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Hư Không Tạng đó, đều chẳng từ nơi nghiệp của thân, khẩu, ý mà phát ra, thị hiện các việc biến hóa, nhưng chính là do diệu lực tu tập từ xa xưa chứa nhóm các căn lành, đầy đủ diệu hạnh sâu xa của Chư Phật, mới có the gầm lên tiếng gầm của sư tử.
Đức Phật nói: Đúng thế, đúng thế! Phạm Vương, như lời ông nói, sự hành hóa của Bồ Tát đều do từ xa xưa đã tích tập diệu lực nơi căn lành phước trí làm hành trang mà ở nơi đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, thề không thoái chuyển nên có thể thị hiện các việc thần thông biến hóa như vậy.
Bấy giờ, Phạm Vương Quang Trang Nghiêm thưa Phật: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là căn lành của Bồ Tát?
Thế nào là phước, là trí?
Đức Phật bảo Phạm Vương: Căn lành, đó là các chúng sinh ban đầu phát tâm cầu đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Phước ấy nghĩa là khi phát tâm rồi, đối với tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, vì các chúng sinh mà tu tập các pháp bố thí, trì giới, lại cùng tu tập để thành tựu tất cả các phước nghiệp. Trí ấy nghĩa là đem tất cả căn lành đã tích tập hồi hướng đến nhất thiết trí.
Lại nữa, căn lành ấy là ý lạc thanh tịnh, không kiêu mạn. Phước ấy là chứa nhóm làm tăng thêm tất cả phước. Trí ấy là ý lạc tăng thêm đều thù thắng.
Lại nữa, căn lành ấy là đối với các pháp thiện ý nguyện luôn được bền chắc. Phước ấy là hành trang của điều thiện được tích tập không hề chán đủ. Trí ấy là quán các căn lành hiện có đều như huyễn.
Lại nữa, căn lành ấy nghĩa là có được bạn tốt. Phước ấy là không bỏ bạn tốt. Trí ấy là luôn thăm hỏi ban tốt.
Lại nữa, căn lành ấy là ưa thích cầu đạt pháp Phật. Phước ấy là nghe pháp không quên. Trí ấy là vui vẻ đối với pháp lạc.
Lại nữa, căn lành ấy là thường cầu pháp Phật. Phước ấy là thuyết pháp không mong cầu. Trí ấy là đối với giáo pháp không hề tiếc lẫn.
Lại nữa, căn lành ấy là thường ưa nghe pháp, phước ấy là quan sát đúng như lý, trí ấy là tu hành đúng như pháp.
Lại nữa, căn lành ấy là thường ưa thấy Phật, phước ấy là luôn cúng dường Phật, trí ấy là thuận theo lời Phật dạy.
Lại nữa, căn lành ấy là được xuất gia, phước là tu tập theo hạnh của dòng Thánh, trí là ưa thích ở chỗ vắng lặng.
Lại nữa, căn lành ấy là khéo có thể tu tập ít ham muốn biết đủ, phước là đối với các y phục, thức ăn, đồ dùng không tham muốm, trí là đối với tất cả vật thọ dụng luôn an nhiên không nhiễm đắm.
Lại nữa, căn lành là tu quán niệm xứ, phước là đầy đủ bốn chánh cần, trí là đạt được bốn như ý túc.
Lại nữa, căn lành ấy là nhập vào tín căn, phước là tu về tấn căn và niệm căn, trí là quán về định căn và tuệ căn.
Lại nữa, căn lành là trụ vào năm lực, phước là tùy thuận nơi bảy giác chi, trí là nhập vào trí của tám Thánh đạo.
Lại nữa, căn lành ấy là tâm an trụ vào diệu lý, phước là cầu đạt hành trang của thiền định, trí là đạt được pháp quán thiện xảo.
Lại nữa, căn lành ấy là việc bố thí đã thành tựu phước nghiệp, phước là sự trì giới đã thành tựu phước nghiệp, trí là tu hành đã thành tựu phước nghiệp.
Lại nữa, căn lành ấy gọi là giới học tăng thượng, phước là tâm học tăng thượng, trí là tuệ học tăng thượng.
Lại nữa, căn lành là ăn năn về những lỗi lầm, phước là tùy hỷ các điều thiện, trí là khuyến thỉnh Chư Phật.
Lại nữa, căn lành ấy là xả bỏ những gì đã có, phước là không mong cầu báo đáp, trí là hồi hướng đến Bồ Đề.
Lại nữa, căn lành ấy là mong cầu giới căn bản, phước là trì giới đầy đủ không khiếm khuyết, trí là trì giới để hồi hướng.
Lại nữa, căn lành ấy là đối với chúng sinh không làm tổn hại, phước ấy là đã nghe lời nói xấu ác đều có thể nhẫn chịu, trí là xả bỏ thân mạng để giáo hóa cho chúng sinh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba